Với tôi, Trần Mộng Tú là nhà thơ đầu tiên, nổi tiếng ngay với những bài thơ đầu tiên của chị ghi lại những cảm thức châng lâng, lạc lõng từ những bước chân tỵ nạn thứ nhất ở xứ người.
Mặc dù những năm giữa và cuối thập niên 1970s, phương tiện phổ biến báo chí gần như không có! Nó chỉ được chép tay hoặc chuyền tay giữa những người tỵ nạn - - Tựa những chiếc lá đột ngột lìa cành, bị rải đi khắp nơi trên nước Mỹ bát ngát bao la, theo chủ trương của chính phủ Hoa Kỳ ở thời điểm đó - - Những bài thơ, những vần thơ của Trần Mộng Tú, xuất hiện trên một tạp chí, có số lượng ấn bản đến tay người đọc không quá ba trăm người. (Hoàn toàn nhờ trung gian những tiệm thực phẩm Á châu mà, chủ nhân đa số là người Tàu).
Nhưng những bài thơ, những vần thơ của chị đã được nhân rộng bằng phương tiện chép lại, chuyền tay, gửi qua bưu điện. Tính nhân rộng kia, không chỉ bởi những người yêu thơ mà, gồm cả những người vốn không quan tâm lắm tới thi ca.
Theo tôi, chúng ta chỉ có thể lý giải hiện tượng bất ngờ hiếm hoi này, vì, thơ Trần Mộng Tú hiện ra, như một sợi dây tinh thần, nối kết những trái tim Việt Nam tan tác, tận cùng đáy thẳm lạc lõng.
Thơ Trần Mộng Tú hiện ra, như chiếc cầu tâm linh hoặc những viên thuốc bổ, cho mọi người còn thấy mình gần gũi với quê cha, đất tổ, qua sợi dây thiêng liêng tiếng Việt.
Ở bậc thềm tỵ nạn thứ nhất, những năm giữa thập niên 1970s, nhiều người Việt tỵ nạn còn tập làm quen với với phương tiện liên lạc bằng điện thoại, nói chi tới phương tiện chuyển dịch bằng xe hơi. Phương tiện phổ thông nhất của lớp người này là thư từ. Là nhắn tin.
Trong bối cảnh đó, những rung động của Trần Mộng Tú, qua thơ của chị, là những rung động chân thành, những cảm thức đi ra từ trái tim, không thể gần gũi hơn, với người Việt trong hoàn cảnh thất thổ, bị cắt lìa hoàn toàn với quê hương!
Tuy nhiên, tôi nghĩ, ở thời điểm đó - - Thời điểm người tỵ nạn bên này biển Đông, không nhận được một tiếng vọng, không bắt được một tín hiệu nào gửi đi từ phần đất mà, gần 1 triệu người đã hốt hoảng bỏ chạy thì, dù cho thơ Trần Mộng Tú có là những tiếng nói không hạnh phúc - - Chí ít nó cũng là tiếng nói Việt Nam. Tiếng nói của con chim tìm đàn. Tiếng nói của một người Việt tỵ nạn, trong một chừng mực nào đó, vẫn cho thấy hồn tính Việt Nam dù giữa cảnh đời cô lập.
Một trong những bài thơ viết trên bậc thềm tỵ nạn thứ nhất của Trần Mộng Tú, được đám đông đón nhận và, mau chóng truyền tụng là bài thơ nhan đề “Lòng nào như suối cạn”:
Ngày xưa trong quán nhỏ
Đời không có mùa đông
Trên môi cà phê ngọt
Trong mắt giọt tình nồng
Hôm nay trong quán lạ
Hai đứa ngồi nhìn nhau
Trên môi cà phê đắng
Trong mắt giọt tình sầu
Một năm trời lận đận
Đời ngọt những vết thương
Một năm trời bôi bác
Đời vui những tấn tuồng
Anh bây giờ đã khác
Trán đã thêm nếp nhăn
Em bây giờ đã khác
Má đã phai sắc hồng
Mắt nào không lệ chảy
Môi nào thơm hương hoa
Lòng nào như suối cạn
Tình nào đã chia xa?
Một năm trời xứ lạ
Không còn gì cho nhau
Giọt tình cuồng trong mắt
Cũng tan theo nỗi sầu...
(Theo “Thơ chọn lọc Việt Nam” - Nguồn Wikipedia-Mở)
Bài thơ in ra, chỉ một tuần sau, đã được nhạc sĩ Nam Lộc tìm vào, phổ nhạc, với tựa đề mới “Giọt Tình Sầu”. (Nếu tôi không lầm thì đấy là ca khúc đầu tay của Nam Lộc?)
Và, không lâu sau, người thứ hai, ở tiểu bang khác, cũng chọn bài thơ trên của Trần Mộng Tú để soạn thành ca khúc, là nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, với tựa đề “Quán lạ”.
Thơ Trần Mộng Tú ở một góc độ nào đó là một thứ tự sự kể. Chị không chủ trương làm văn chương hay thi ca hóa một sự kiện, một kỷ niệm mà, chị rất trung thực, rất thiết tha chân tình khi ghi lại những cảm nhận thốn tâm, như:
“Anh bây giờ đã khác
Trán đã thêm nếp nhăn
Em bây giờ đã khác
Má đã phai sắc hồng”.
Hay:
“Một năm trời xứ lạ
Không còn gì cho nhau
Giọt tình cuồng trong mắt
Cũng tan theo nỗi sầu”
Đó là hiện thực, một hiện thực không thể đau xót hơn, của những cảnh đời tỵ nạn đầu tiên, nơi xứ người.
Hoặc nữa:
Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
em tủi như chim khuyên
khóc trong lồng son mới
Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác.
(Nguồn Wikipedia-Mở)
Với những câu thơ như những tiếng kêu tuyệt vọng, từ “ghét-tô”, như:
Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa”
Hay:
Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác.
Tôi tin, sẽ không một ai ngạc nhiên để phải tự hỏi, tại sao thơ Trần Mộng Tú ngay tự những ngày đầu tỵ nạn đã là tiếng thơ đầu tiên, trở thành tiếng nói chung của tất cả mọi người.
Sự nổi tiếng lập tức của tiếng thơ họ Trần, cũng khiến chị trở thành nhà thơ tỵ nạn đầu tiên ở Hoa Kỳ, có thơ được chuyển thành ca khúc.
Dõi theo hành trình thi ca rực rỡ chân-cảm của Trần Mộng Tú, tôi không chút ngạc nhiên khi thấy, về sau, càng lúc, càng có thêm nhiều nhạc sĩ đã tìm đến với thơ của chị - - Như tìm tới một Việt-Nam-thi-ca tiêu biểu. Khiến chị trở thành một trong số ít nhà thơ nữ, có nhiều thơ phổ nhạc nhất ở xứ người.
Tuy nhiên, vẫn theo tôi thì, thành tựu thi ca mang tên Trần Mộng Tú không dừng ở đó. Tự thân tiếng thơ của chị, bằng cách riêng của nó, đã đi vào và, trở thành đề tài học tập, nghiên cứu của học sinh Hoa Kỳ.
Du Tử Lê,
(Còn tiếp 1 kỳ)