(Tiếp theo kỳ trước)
Tôi không nhớ lần đầu tiên được nghe ca khúc “Ném con cho giông tố” của thi sĩ Trần Dạ Từ, cách đây đã bao năm? Chỉ nhớ, trong một buổi họp mặt ở một thính phòng lớn trên đường Beach, thành phố Westminster, khi tiếng hát Quang Tuấn mới cất lên, tôi đã nắm tay bạn tôi, bày tỏ xúc động bất ngờ của mình:
“Em có lũ con thơ bị quê hương ruồng bỏ
Từ bóng tối hận thù. Em nghiến răng
Ném con vào giông tố…”
Tiếng hát Quang Tuấn càng lúc, càng đẩy cảm xúc tôi đến đỉnh cao chót vót của bi kịch đất nước mà, những người vợ, những đứa con miền Nam phải gánh chịu, khi chồng, cha họ biệt tăm nơi những trại giam cay nghiệt từ Nam ra Bắc.
Trong tôi, câu hỏi cay đắng bật lên: Nếu không có hơn mười năm tù đầy, liệu ông có thể cho chúng ta ca khúc “Ném con cho giông tố” - - Một ca khúc, như tôi biết, chưa từng có trong lịch sử tân nhạc thế giới:
“Giông tố giông tố ngoài khơi xa
Ta gửi ngươi. Ta gửi ngươi con ta
Xương thịt ta. Tâm hồn ta. Hy vọng ta
.
“Giông tố giông tố ngoài khơi xa
Giông tố giông tố ngoài khơi xa
Như niềm tin tự do, từ quê hương mịt mù…”
Nhưng, sau đó, khi xúc động lắng xuống, tôi lại thấy, trong thảm kịch tháng Tư – 1975, chúng ta không chỉ có một tù nhân Trần Dạ Từ. Chúng ta có hàng triệu người tù của thời thế xấp, ngửa như Trần Dạ Từ. Trong số đó, chúng ta cũng có những người tù nổi tiếng như Doãn Quốc Sỹ, như Nguyễn Sĩ Tế, như Như Phong, như Tô Thùy Yên, như Nguyễn Hải Chí… Trong số đó, có những người tù bị giam cầm tù dài lâu hơn Trần Dạ Từ. Có những người tù nằm “cát-xô” nhiều ngày tháng hơn Trần Dạ Từ…Thí dụ nhà văn nổi tiếng Thảo Trường, một trong mười mấy người tù có trên 17 năm địa ngục – Ông được coi là người đóng cửa nhà tù. Nhưng khi được trả tự do, thì, đâu phải vì thế Thảo Trường đã cho bạn đọc của ông một hay nhiều ca khúc! Thảo Trường, những năm tháng được tự do nơi quê người, vẫn gửi tới những người yêu mến tài năng ông, những trang văn xuôi nghẹn ngào tính người, khoắng, sâu nhân bản… Nhưng tuyệt nhiên, ông không cho chúng ta một ca khúc, như “Ném con cho giông tố”. Thảo Trường cũng không cho chúng ta:
“Lòng ta ở với người
Người thật thà bị lừa dối
Người trung trinh bị phản bội
Người tín nghĩa bị bỏ rơi
Người vô tội bị săn đuổi
Người ngây thơ bị vùi dập
Người ơi đây lòng tôi sôi sục bài hát
.
Bài hát lòng tôi ở với người
Người thân giam ngục tối
Người xác vất bể khơi
Người trôi dạt bên trời
Người mẹ góa con côi
Người đêm đêm mòn mỏi
Và bài hát lòng tôi còn ở mãi bên người…”
(Trích ca khúc “Lòng Ta ở với người”, Trần Dạ Từ, trại tù Gia Trung, 1977)
Vì thế, câu hỏi lớn đến và ở lại với tôi dài lâu là: Từ đâu? Tại sao chúng ta lại có thể có một Trần Dạ Từ, nhạc sĩ? Sau khi văn chương miền Nam 20 năm, đã đem đến cho chúng ta một Trần Dạ Từ / Lê Hạ Vĩnh, thi sĩ mà, cố thi sĩ Hồ Đình Phương, từ giữa thập niên 1950, đã không ngần ngại gọi họ Lê là “thần đồng thi ca?”
Câu hỏi của tôi, chỉ được trả lời thỏa đáng, khi biết, ngay tự những năm 15, 16 tuổi, họ Lê đã được đài phát thành mời phụ trách một chương trình âm nhạc. Ở vai trò người thực hiện chương trình, thành tích to lớn, họa hiếm đã xẩy ra: Ông là người đầu tiên và duy nhất, tính tới hôm nay, thực hiện liên tục 300 chương trình chủ đề nhạc Phạm Duy. Sự kiện này, cho tôi đi tới kết luận, chủng tử âm nhạc nơi Trần Dạ Từ đã được cấy, gieo tự những ngày niên thiếu. Chính sự kiện này, làm thành sự khác biệt giữa người tù, thi sĩ Trần Dạ Từ với những người tù văn hữu khác của ông.
.
Tôi nghĩ, chúng ta sẽ dễ dàng đồng ý với nhau khi xét nguyên nghĩa cụm từ “thi ca” trong cách nói của tiếng Việt, để thấy rằng thơ và nhạc, tựa như hai mặt của một đồng tiền VHNT. Phải chăng, vì thế, khi hoàn cảnh tù đầy, để tồn tại, nó buộc thi sĩ của chúng ta phải tìm vào mặt bên kia của đồng tiền VHNT: Mặt âm nhạc (ghi lại bằng trí nhớ), thì, Trần Dạ Từ / Lê Hạ Vĩnh, không chỉ đi tiếp con đường tìm cho ca khúc của ông những “cách nói khác” (vốn là sở đắc ông có được ngay từ những ngày đầu làm thơ) - - Mà, ông còn cho ca khúc của mình, những cách nhìn hay “cảm nghiệm khác”.
Tôi thường dùng cụm từ “cách nói khác” cho thi ca, hiểu theo nghĩa đó là khả năng liên-tưởng (thought-connection) của nhà thơ khi quan sát vũ trụ hay thế giới sự vật… Nhưng cách gì thì liên-tưởng vẫn nằm trong giới hạn về sự so sánh riêng của nhà thơ trước cảnh giới trực diện. Nhà thơ chỉ thực sự lớn, theo tôi, khi ông / bà ta bước khỏi phạm trù liên tưởng, để vào phạm trù khác: Phạm trù tư tưởng, mang tính nhân bản. Từ đó, mở được cánh ngôi nhà chung: Ngôi nhà nhân loại. Tôi muốn gọi đó là “cảm nghiệm khác”.
Khởi tự “cảm nghiệm khác”, những ai dõi theo những ca khúc mang tên Trần Dạ Từ / Lê Hạ Vĩnh, từ đĩa nhạc đầu tiên “Nụ cười trăm năm”, hẳn cảm được, trong nhạc của ông, có những cảm nhận chưa từng có trong lịch sử ca khúc Việt Nam non một thế kỷ.
Tính chất “cảm nghiệm khác”, trong ca từ của họ Lê, qua hai đĩa nhạc mới “Gội đầu” và “Bay”, ngày càng thêm đậm nét, khi ông viết:
“Gội đầu. Gội đầu thôi. Gội đầu thôi
Bê bết lâu rồi. Ơi cái đầu xấu xí
Cay cú, cuồng si.
Gội đầu. Gội đầu đi. Tử biệt. Sinh ly.
Gội đầu bằng bão tố. Gội đầu bằng nắng lửa
Ơi cái đầu bể dâu…”
(Trích “Gội đầu” – Ca khúc Trần Dạ Từ)
Ở đây, ngoài sự kiện lần đầu tiên, họ Lê đem được vào ca khúc việc làm tầm thường nhàm chán, hàng ngày, không một chút lãng mạn, thơ mộng… Ông còn cho thấy tính “cảm nghiệm” nhân sinh. Cảm nghiệm mọi bi kịch con người dành cho nhau, luôn khởi đi tự cái… đầu (nguồn gốc tư duy):
“Gội đầu mà gội đầu. Gội cái dầu chua lè.
Gội cái đầu cay sè. Gội sạch nhé
Gội cho ngày sau nhìn ra nhau…”
“Nhìn ra nhau” hay hãy nhận ra đồng loại, hãy nhận ra ruột thịt mình - - Dù cho, cuối cùng chỉ là một “mái đầu tuyết sương”:
“Gội đầu thật sạch, đứng bên đường
Một mình trơ trụi, cây bạch dương
Mặc cho gió vò mãi mái tóc
Vò mãi. Vò mãi niềm sót thương
Vò mãi. Vò mãi. Ơi mái đầu tuyết sương.”
((Trích “Gội đầu” – Ca khúc Trần Dạ Từ)
.
Với tôi, thành quả “Ơi mái đầu tuyết sương”, là một đìu hiu lớn của tâm thái thi sĩ. Nó cho tôi liên tưởng tới sức phấn đấu của con người trước mọi khó khăn, nghịch cảnh qua bộ xương cá marlin mà, cuối cùng, Hemingway có được trong truyện “Ngư ông và biển cả” (tác phẩm từng được trao giải Nobel văn chương) thì, ở “Gội đầu” của Trần Dạ Từ, chính là phẩm giá mang tính nhân quần giữa con người với con người vậy.
Du Tử Lê,
(Còn tiếp một kỳ)