Xuất hiện từ giữa thập niên 1960, nhưng tới cuối thập niên này, thơ / văn Nguyễn Đạt mới được văn giới chú ý nhiều.
Tôi không biết bước chân đầu tiên vào nghiệp văn chương, chữ, nghĩa của Nguyễn Đạt là thi ca hay văn xuôi. Chỉ biết anh em cũng như độc giả quen nhìn, và gọi ông một nhà thơ.
Cá nhân tôi, muốn nhìn ông ở cả hai lãnh vực. Gọi chung là văn chương. Lý do, ở lãnh vực nào, họ Nguyễn cũng hiện ra như một người viết không ngưng nghỉ đi tìm cho cõi-giới chữ, nghĩa của mình cái mới. Cùng lúc ông cũng cho thấy ông muốn thử nghiệm một loại văn xuôi, khác. Cụ thể như sự quyết liệt của ông ở với phong cách “Tiểu thuyết mới / nouveau roman” - - Dù cho phong trào này đã tàn lụi ngay nơi quê hương sản sinh ra nó. (1) Và, một số nhà văn miền Nam, vào những năm đầu thập niên 1970, đã từng lớn tiếng, rôm rả đề cập tới dòng văn chương này, như một biến cố lớn lao của văn chương thế giới! Mặc dù cá nhân họ, vẫn tiếp tục lối viết cũ. Đôi người tỏ ra tiên tiến thì cũng chỉ thể hiện được trên văn bản, phần bì phu (ngoài da) chứ không thực sự ứng dụng những yếu tố căn bản của trường phái ấy. (2)
Nỗ lực tự ném mình về phía cái mới, bất kể thành công hay thất bại của thi sĩ / nhà văn của Nguyễn Đạt, tôi cho là điều đáng kể nhất trên dặm trường văn chương của cây bút này.
Nỗ lực chữ, nghĩa quyết liệt của họ Nguyễn, không đổi chiều hay suy yếu sau biến cố tháng 4-1975. Trái lại, người ta thấy, sau cơn động đất địa, chính, trong lúc đa số người cầm bút bị những trận bão thời thế, xã hội, tình cảnh cá nhân, đã không còn khả năng sáng tạo thì, Nguyễn Đạt vẫn lầm lì, đi tới. Rất nhiều thi phẩm và tập truyện của ông đã được ấn hành. Thí dụ: thi phẩm “Nơi giá băng” (NGB)do Hội Nhà văn VN, ấn hành năm 1991, hoặc “Kỷ niệm dã quỳ và những truyện ngắn khác” do nhà XB Trẻ ấn hành năm 2016, v.v…
.
Như đã nói, vì tính quyết liệt với chủ trương làm mới văn chương của mình, nên, dù đó là những bài thơ họ Nguyễn viết từ trước hay, sau thời điểm 1975, người đọc vẫn gặp được trong thơ ông, những liên tưởng mới mẻ như:
“Đêm tối như áo choàng dạ cũ
Đêm tối sự sống chui vô trong
Của núi đá của cỏ dại của rừng thông
Của hồi ức
Ngàn năm như thác đổ rã tâm thần.”
(Trích “Đêm Đơn Dương”, trong “ĐGB” trang 23)
Đoạn thơ trên được tác giả viết từ năm 1966 cách nay đúng nửa thế kỷ. Nếu không quá khó tính, tôi cho tới hôm nay những câu: “Đêm tối như áo choàng dạ cũ” và “Ngàn năm như thác đổ rã tâm thần”, vẫn tươi rói, tựa mới được viết đây.
Hoặc gần hơn:
“Cỏ dại mở mắt ngó sự thật
Ở nơi này hay tận nơi xa”
(Trích “Tôi tới nơi này”. Thi phẩm “Dran” Nhà XB Giấy Vụn, Saigon 2015)
(Kỳ sau tiếp)
_________
Chú thích:
(1)Trang mạng Wikipedia-Mở ghi nhận vắn tắt về phong trào “Tiểu thuyết mới / Nouveau roman” như sau:
“Tiểu thuyết mới (tiếng Pháp: Nouveau roman) là một phong trào văn học vào khoảng 1950 tới 1970 ở Pháp của một nhóm các tác giả chủ yếu thuộc nhà xuất bản Minuit. Thuật ngữ này được đưa ra lần đầu tiên với ý nghĩa tiêu cực bởi nhà phê bình Émile Henriot trong một bài trên báo Le Monde ngày 22 tháng 5 năm 1957 để phê bình tiểu thuyết Jalousie của Alain Robbe-Grillet. Ngược lại với cái tên của nó, đây không hẳn là một trường phái văn học tiên phong. Các tiểu thuyết gia tìm các đổi mới trong từng cuốn tiểu thuyết, mỗi cuốn sách là một thể nghiệm cách viết mới. Phong cách của họ rất đa dạng, đặt lại những câu hỏi về nền tảng của tiểu thuyết, xây dựng những tiểu thuyết với và gây ra các tranh luận "phê bình mới", chống lại cách phê bình truyền thống trên các báo chí và tạp chí văn học. Không thỏa ước với tiểu quyết truyền thống của thế kỷ 18 và cả các tác giả như Honoré de Balzac, Émile Zola, tiểu thuyết mới mong muốn một ý thức nghệ thuật của riêng mình. Đặt câu hỏi về vị trí người kể: họ đứng ở đâu trong câu chuyện, tại sao họ kể lại, tại sao họ viết ra. “Vào cuối thập niên 1970, trào lưu này xem như kết thúc”.
Mặt khác, theo nhà phê bình văn học Pháp, Carl Gustaf Bjurstrom, trong tác phẩm “Văn Học Thế Giới Hiện Đại / Les Littératures Contemporaines À Travers Le Monde”, bản dịch của Bửu Ý (3) thì: Nhóm này chủ trương xóa bỏ loại tiểu thuyết từ hồi nào giờ, vẫn ôm chặt lấy nghệ thuật phân tích tâm lý, như thể đó là chuẩn mực cao nhất và, bất biến của văn chương. Trong khi theo họ (những người chủ trương “Tiểu thuyết mới”) thì, nó lại là những ước lệ, giả tạo, dối trá, hợm hĩnh của cái “ta” trong vai trò thượng đế, ban phước, giáng họa cho tất tật mọi nhân vật. Những nhà văn cổ súy phong trào “Tiểu thuyết mới” đòi hỏi nhà văn phải trở lại với những khách quan của một người quan sát, phải luôn tự giác trước thực tế đời sống, ngoại cảnh. Mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, nhà văn Ollir, một thành viên khác trong nhóm, qua tiểu thuyết “Đạo diễn” đã cho thấy “sự hiện diện của đồ vật là trên hết”.
Vẫn theo tác giả Carl Gustaf Bjurstrom:
“Khuynh hướng này không hoàn toàn mới mẻ. Năm 1925 Gide đã viết ‘Bọn Làm Bạc Giả’ đi ngược với mọi truyền thống kể chuyện. Cuốn ‘Ulysse’ của James Joyce muốn ghi lại những cảm tưởng nguyên hình trạng. Và trong trường phái ‘tiểu thuyết mới’, Nathalie Sarraute, với những bài đầu tiên viết trước thế chiến, thật ra đã nối kết ảnh hưởng của Joyce với tân trường phái. Tiểu luận ‘Kỷ nguyên ngờ vực’, giống như ‘Kỷ yếu về sự phân hóa’ của Cioran và ‘Mục lục’ của Michel Butor báo hiệu trước bước đường cùng của tiểu thuyết tâm lý (…) Như thế, là ‘tiểu thuyết mới’ biến cải một cách thiết yếu cái ‘điểm quan sát’ của tiểu thuyết gia. Không còn là kẻ kể chuyện đã biết hồi kết cuộc nên chi ‘sắp xếp’ và diễn theo lối kết thúc đó. Nó chỉ là chứng nhân ghi nhận những hiện diện, những xúc cảm…”
(2) Tôi dùng hai chữ “bì phu (ngoài da) vì thời gian đó, cũng có của một vài nhà văn cố tình viết nhiều trang truyện không một dấu chấm; hoặc họ không đặt tên cho nhân vật mà chỉ dùng những chỉ danh như “người đàn ông” hay “người đàn”… Cho rằng như thế truyện mới mang tính khách quan. Nhưng chúng không phải là yếu tính căn để của phong trào “Tiểu thuyết mới”. Cũng có nhà văn cố gắng áp dụng ít nhiều định nghĩa của phòng trào này trong văn xuôi của họ. Nhưng vì giới hạn của tài năng, nên chúng đã không tạo được một chú ý nào, ngay trong văn giới.
(3) “Văn học thế giới hiện đại” bản dịch từ Pháp ngữ của dịch giả Bửu Ý. Nhà Xuân Thu Hoa Kỳ, in lại tại Mỹ theo bản in ở Việt Nam. Nhưng, không ghi ngày tháng và, cũng không ghi tên nhà xuất đầu tiên. Được biết An Tiêm là nhà xuất bản đầu tiên ấn hành bản dịch của nhà văn Bửu Ý, Saigon, trước tháng 4-1975. Riêng dịch giả, nhà văn Bửu Ý hiện vẫn cư ngụ tại Huế. Ông sinh năm 1937, tại Thừa Thiên, Huế.