Phù Hư là một trong những nhà thơ quen thuộc của độc giả miền Nam, trước tháng 4-1975. Ông nổi tiếng với bài thơ “Ngậm Thẻ Qua Sông”, viết năm 1972. (1)
Sự thực Phù Hư / Nguyễn Đắc Ngân, không chỉ được đông đảo những người yêu thơ biết tới, qua bài thơ vừa kể mà, ông cũng nhận được nhiều yêu mến qua một số bài thơ khác, như “Quân Bộ Khúc”, “Đồn Sơn Yểm”…
Dường như tất cả những bài thơ được coi là nổi tiếng của Phù Hư, đều viết về những năm, tháng ông chiến tranh khốc liệt ở miền Nam. Những bài thơ ra thoát khỏi phong trào hay, sự “đồng bộ” của những người làm thơ về chiến tranh, súng đạn một thời chinh chiến. Họ Nguyễn với những bài thơ viết ở thời kỳ đó, đã hiện ra như một “chân dung” hai mặt. Không ít người cho rằng đó là loại thơ “phản chiến” - - Có tính chất thời thượng! Nhưng cũng không ít người lại ghi nhận, đó là những bài thơ phản ảnh tình cảm trung thực, rất con người, của Phù Hư. Ông không vô tình hay cố ý, gắn cho thơ của ông một “nhãn hiệu” nào - - Dù ngợi ca hay, khinh bạc sống, chết…
Phù Hư / Nguyễn Đắc Ngân không “lên gân” coi cái chết như…củ khoai. Ông cũng không phất cao ngọn cờ căm thù hoặc, cầu nguyện Thượng đế ban phước lành cho dân tộc Việt Nam, sớm có hòa bình. Họ Nguyễn chỉ ghi nhận những chi tiết nhỏ nhặt, những rung động vi tế từ trái tim mẫn cảm… Nhưng chính những cảm thức tưởng chừng nhỏ nhặt kia, tự thân, lại mang rất nhiều ý nghĩa!!! Vì đó chính là thân phận con người! Thực tế đời thường, ở những góc khuất, lấp nhất…
Nếu nối kết đa số những bài thơ của Phù Hư, trong thi phẩm “Ngậm Thẻ Qua Sông” thì, với tôi, đấy là một trường khúc lấp lánh tính nhân bản, lấp lánh, sáng lên từ thảm kịch chung một giai đoạn lịch sử, đất nước.
Nhà văn Trần Văn Nam, tháng 9 năm 2009, trong một bài nhận định về thơ thời chiến, ở miền Nam, viết đã chia loại thơ thời thế này, thành hai dòng chảy, khi ông viết về thi phẩm “Ngậm Thẻ Qua Sông” của Phù Hư, được nhà XB Hội Nhà Văn, ấn hành đầu năm 2013, như sau:
“Thơ Thời chiến Miền Nam, ta thường nhắc những câu thơ khinh bạc của những quân nhân ở trong cuộc; ta cảm thức những ý tưởng pha trộn chấp nhận và chua chát làm người trong thế hệ đi vào cuộc chiến; những ý tưởng kiểu ‘cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi’ mà trong Đường Thi có nói tới rồi từ hàng ngàn năm trước. Như Nguyễn Bắc Sơn tiên liệu một điều may rủi: ‘Mai ta đụng trận ta còn sống / Về ghé Sông Mao phá phách chơi / Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm / Đốt tiền mua vội một ngày vui’. Như Tô Thùy Yên nghĩ thầm biết đâu ngày mai có thể tử trận: ‘Còn mươi tháng nữa lên trung úy / Có thể ngày mai chửa biết chừng’. Hoặc như Trần Hoài Thư cũng có mối ưu tư ngày mai như vậy: ‘Xin cô hàng thêm một két bia / Hôm nay lãnh lương tôi đãi hết / Cô hàng ơi, một mai tôi chết / Ai tiêu dùm, ba tháng tiền lương’. Còn rất nhiều những câu thơ khinh bạc rải rác trong thơ thời chiến Miền Nam.
Để dễ dàng dẫn chứng, ta có thể truy cập căn cứ vào bộ sách có nhiều công sưu tầm ‘Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến’ (nhà xuất bản Thư Ấn Quán, tập I và II, dầy 1550 trang).
(…)
“Cũng trong bộ sách ‘Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến’ ấy, ta bắt gặp nhiều câu thơ tình đời thường, nghĩa là không có vẻ gì khinh bạc số phận rủi may vì mũi tên hòn đạn vô tình mà bỏ lại người yêu; chỉ là thơ nhắc nhở người vợ hiền hay người tình chưa cưới hãy chờ đợi, hãy lo cho con thơ, cho cha mẹ già, cho mảnh vườn hay ruộng nương lợi tức khiêm tốn. Lãng mạn hơn thì là nhắc nhở chuyện ngày xưa gặp gỡ thần tiên mà bây giờ tính lại cũng đã bao năm canh gác nơi tiền đồn biên giới; nhắc nhở chuyện ngày nào cùng học một trường với lưu bút ngày xanh mà nay đành phải xếp bút nghiên. Buồn bã hơn thì tin tức em lên xe hoa trong khi anh chưa biết ngày nào hết hạn quân dịch… Những câu thơ tình đời thường ít gây ấn tượng nên rải rác đâu đó trong thơ thời chiến như gió thoảng qua, chờ đợi ta sưu tầm sự phong phú của nó, thiết tưởng cũng không kém số lượng như thơ tình khinh bạc…”
Sau khi phân nhánh hai dòng chảy chính của thơ miền Nam thời chinh chiến, họ Trần bước vào bài “Ngậm Thẻ Qua Sông” của Phù Hư:
“Lại có những người đã vào hẳn quân ngũ, đã hành quân xuôi ngược khắp nơi, nhưng thơ thì vẫn là thơ tình đời thường, như kể chuyện trong thời gian hành quân tạm trú bên hông nhà của gia đình thường dân (dù được mời vào ở trong nhà, nhưng khước từ vì không muốn gia chủ khó xử và bận rộn).
“Gia chủ là một thiếu phụ có chồng cũng đi lính đã rất lâu, không biết sống chết ra sao mà bặt tin tức gửi về. Người lính chắc có ý nghĩ thầm kín khi kể mẹ nàng trông mong có một mụn cháu đầu lòng mà tin chồng nàng thì bặt vô âm tín. Người lính chắc cũng có ý nghĩ thầm kín khi đêm khuya nghe tiếng nàng thở dài, vì chàng ngủ bên hông nhà chỉ cách ngăn bởi một vách đất. Bài thơ này nhan đề ‘Ngậm Thẻ Qua Sông’ của tác giả Phù Hư (do nhà văn Trần Hoài Thư gửi đến năm 2009), cùng một số thơ khác được Thư Quán Bản Thảo sưu tầm và gửi đi cho các bạn quen để coi như phần bổ túc cho bộ sách ‘Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến’. Đôi bài đã có sẵn trong bộ sách ấy, như bài ‘Ngậm Thẻ Qua Sông’ này. Bài thơ viết theo lối một truyện kể, nhưng có những từ ngữ và thi ảnh thật hiếm quý, như khi ánh trăng chiếu xuống thì ‘ngồi co mình cho bóng bớt riêng tôi’ và khi thức khuya mới hay ‘hồn bớt ngủ’, cũng như mới hay ‘trăng tháng chạp úa quanh đồi’. Một tháng ở bên hông nhà như vậy, không làm phiền gì ai, cho đến khi đội quân có lệnh rút đi bí mật vào lúc nửa khuya, người lính cũng lặng lẽ rời khỏi nơi tá túc (mỗi người lính tá túc kế bên mỗi nhà người dân, theo lối ấy, chắc là cách tản mác khi nghỉ dưỡng quân, không theo lối tập trung dễ làm mục tiêu cho đạn pháo rót vào). Rút đi êm ru, bỏ lại những ý nghĩ thầm kín, cố gắng giữ thật im lặng như khi quân di hành qua sông cần ngậm thẻ bài bằng kim loại thường ngày đeo ở cổ. Ngậm thẻ như vậy hầu tránh cơn ho chợt đến không kìm giữ nổi, hay kiểm soát cái sặc sụa biết đâu lại tới tình cờ. Vậy ngậm thẻ qua sông vừa có nghĩa đen ‘giữ im lặng bí mật khi hành quân’, vừa có nghĩa bóng ‘giữ kín ý nghĩ thầm có thể phạm tới luân thường đạo lý’, nhất là khi người chồng của người thiếu phụ cũng là lính bôn ba xuôi ngược như mình, cũng bặt tăm như mình qua bao năm chinh chiến chưa một lần ghé thăm nhà. Bài thơ như một truyện kể, nên xin trích ra khá dài hầu không bỏ sót những câu thơ hay, và phải gồm những chi tiết khiến ta thông cảm cho một mối tình câm:
“… em nhớ thương chồng đóng đồn ải xa
lâu, tin vắng, trông mòn đường xóm
tôi ở quá bên hông nhà gió sớm
đợi dùm em tin chinh chiến gởi về
“… làng em ở gió Lào qua rất độc
ngày mưa mù khuất núi mù sông
mẹ già mong một mụn cháu đầu lòng
em nhắn gửi, bao lần tin vẫn biệt
“… tôi nương bóng nhà trăng che khuất
ngồi co mình cho bóng bớt riêng tôi
nhìn xa trăng định trốn sau đồi
sông, tiếng vạc đậm buồn như tiếng cú
thức có khuya mới nghe hồn bớt ngủ
mới hay trăng tháng chạp úa quanh đồi
nghe em thở buồn não mãi không thôi
“… em vẫn bảo tôi mái tranh không chật
tôi cười xòa xó xỉnh miết đâm quen
“… hôm từ biệt quanh thôn nhà cửa khép
lúc quân đi chắc em không hề biết
đội tôi ngậm ngùi ngậm thẻ qua sông
còn tôi co ro lạnh mãi gió đông
một lần cuối nhìn nhà em đóng kín
tin chồng em chắc chưa về đến bến
như tin tôi mấy thuở gởi thăm nhà...”
(Phù Hư trong bài “Ngậm Thẻ Qua Sông”). (Nguồn Wikipedia)