Vũ Đức Tô Châu, thơ không biệt, lìa đời sống.

17 Tháng Mười 20171:47 CH(Xem: 4393)
Vũ Đức Tô Châu, thơ không biệt, lìa đời sống.


Dõi theo hành trình chữ, nghĩa của họ Vũ, tôi thấy dường như mỗi một bài thơ gửi đi, là một nỗ lực làm mới - - Chí ít, cũng với chính những sáng tác của ông, trước đó.

Trong số rất ít, những bài thơ tôi được đọc của Vũ Đức Tô Châu thì, trăng có vẻ chiếm giữ một tỷ lệ đáng kể. Thí dụ trong bài “Luân khúc cổ cầm”, mấy câu mở vào bài thơ (khá dài), đã là:

“Đêm nguyệt vàng
Thu tàn trước ngõ
Trăng chờ ai mờ tỏ bên trời
Điệu cổ cầm thổn thức chơi vơi…”


Nhưng khi qua tới bài “Chờ Tình” viết theo thể lục bát, Vũ Đức Tô Châu lại cho trăng của ông cảm, nhập tính thiền:

“Ta còn say chén hoàng hôn
Vầng trăng đã tịnh trên cồn bãi xưa”


Và, đây, một vầng trăng khác nữa, cũng đi ra từ cõi-giới thi ca Vũ Đức Tô Châu, nhưng đó lại là “Trăng rơi đáy nước hồ không động” - - trong bài thơ nhan đề “Chớm Rụng” chỉ có 4 câu - - Vô tình (?) dung chấp cùng lúc 2 đặc tính liên-tưởng-nghịch và, liên-tưởng-xuôi:

Trăng rơi đáy nước hồ không động
Trên bến lòng ta muôn sóng xô
Mắt đượm u hoài thu chớm rụng!
Sương khói gieo hồn rưng lá khô.”


Dường không chỉ với trăng, một hình ảnh quen thuộc tới nhàm chán, cạn kiệt “khí huyết” đã lâu, được họ Vũ cố gắng gắn cho nó một “hồn tính” khác mà, ngay cả với những hình ảnh cũng đã từng được thi ca tận tình khai thác là cây nến, cũng được ông cho nó tương quan lạ… Thay vì viết “lệ nến” hay “tim nến” thì Vũ Đức Tô Châu viết:

“Đêm mở ngỏ tàn canh vầy nến nát”
(Trích “Luân khúc cổ cầm”)

Tôi không nghĩ tôi hiểu rõ động từ “vầy” trong câu thơ “vầy nến nát” của họ Vũ. Nhưng hiển nhiên, đấy là một cụm từ ít thấy hoặc, chưa từng thấy trong thơ của chúng ta.

Tuy nhiên, dù họ Vũ có hý lộng chữ, nghĩa thi ca của ông qua những kênh, mạch lãng mạn như một đối-lực với thực cảnh xã hội hôm nay, thì, ông vẫn không che đậy, không sử dụng lượng ma-túy-tình-yêu-cao-độ để phủ dụ hoặc, để nguôi ngoai những vết thương thời sự lở loét tử sinh; trơ, bày nhục nhã. Tôi nhìn ra khía cạnh này trong thơ Vũ Đức Tô Châu qua những câu thơ như:

“... Mùa xuân ta ngắm biển
Núi sông buồn miên man
Biển ngoài kia bật khóc
Có ai sầu quan san
…”
(Trích “Mùa Xuân Ta Ngắm Biển”)

Hoặc:

“… Bên hiên chiều xứ lạ
Trôi về đâu mây ơi?
Ta gửi hồn rưng lệ
Nhớ quê sầu chơi vơi!
Đôi khi nâng cốc rượu
Uống như thuyền ra khơi
Nghe sóng cuồng bão nổi
Thương cánh buồm… lẻ loi…

(Trích Bên Hiên Chiều”)

Ở đây, tôi không nói tới câu thơ có thể nói là khá mới của Vũ Đức Tô Châu; câu “đôi khi nâng cốc rượu / uống như thuyền ra khơi” mà, tôi chỉ muốn nhấn mạnh, bi kịch tổ quốc đã được họ Vũ, ghi nhận bằng nỗi đau đớn và nhục nhã theo cách của ông. Ông không dùng những danh từ đao to, búa lớn. Ông cũng không ồn ào lên án, gào thét thê thiết trong thơ. Nhưng, theo tôi, chính tính chất lặn vào bên trong, lắng xuống những nỗi đau nhục giống nòi, tưởng như không thời sự mà, người đọc thấm thía, ngậm ngùi hơn!.!

Tôi không biết có phải bắt nguồn từ quan niệm thi ca tới một mức độ nào đó thì phải nhìn nhận (như họ Vũ), rằng: “Những tài hoa thi khách chạm tay đời”, trích từ bài thơ “Mộng đêm qua” của Vũ Đức Tô Châu:

“Ta thấy mình đi dạo
Bước quanh triền quỹ đạo Năm Châu
Gặp (Homer) và hội ngộ (Nguyễn Du)
...
Khói trầm hương thoảng ngát quyện đôi bờ
Bi tráng đời ai hát thành thơ
Dường bão tố! Biển muôn triều dậy sóng
Mấy nghìn năm (Sử Thi) đồng vọng
Tửu Đồ say trên chiếu rượu quên sầu!
Khóc ư?
Sông núi cũng đổi dời!
Cười ư?
Mơ (Odyssey) ngày trở lại
Ta mộng thấy một trời thơ rất lạ
Những tài hoa thi khách chạm tay đời.

“Nam việt 2017
“·Homer, Odyssey: Các vị Thần Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ thứ X trước Công Nguyên.”
.
Tôi hiểu, tuy là một bộ môn văn chương quan yếu, nhưng thành kiến từ xưa, vẫn cho thi ca là một trò chơi trí tuệ phù phiếm. Vô bổ. Thậm chí còn được “định danh” là… “thơ thẩn”, là “khùng điên" nữa!.!

Nhưng Vũ Đức Tô Châu không nghĩ thế.

Cái nhìn về thi ca của họ Vũ, hoàn toàn ngược lại. Đó là khi “Những tài hoa thi khách chạm tay đời”…


Theo tôi, tùy trình độ, ý thức, vị trí… mà chúng ta có nhiều quan niệm đối nghịch nhau về sự có mặt của thi ca. Cùng lúc với sự xuất hiện của loài người, trước khi nhân loại có chữ viết thì chúng ta đã có thơ truyền khẩu… Sự kiện này cho thấy tính song hành giữa đời sống tinh thần của con người với thi ca.

Nên có thể không ít người đã lên án thơ Hồ Xuân Hương, là thơ của một người phụ nữ bị ẩn ức sinh lý… Nhưng ngược lại, thơ của bà lại được các nhà nghiên cứu văn học ghi nhận, đó là tiếng nói đòi hỏi sự bình đẳng nam / nữ sớm nhất trong lịch sử đấu tranh cho nữ quyền của Việt Nam. Nó không hề thuần túy là tiếng than trong đêm trường lạnh lẽo của một người đàn bà bị “bỏ quên” trong cuộc hôn nhân mà, người phụ nữ ấy, chỉ là một thứ vợ lẽ, “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung / Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” (HXH)

Cũng thế, người ta có thể dễ dàng kết luận mấy bài thơ của T.T. Kh. chỉ là những bày tỏ thất vọng của một phụ nữ không được phép tham dự vào cuộc hôn nhân của mình, vì những ràng buộc khe khắt của xã hội thời phong kiến. (*) Nhưng cũng không thiếu những nhà phê bình văn học, nghiên cứu xã hội, lại cho rằng, thơ của nữ sĩ TTKh, cho thấy bà là nạn nhân của chế độ cưới gả theo tập quán “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, vì “môn đăng hậu đối”, hứa hẹn trước đó của hai gia đình…. Và, thơ T.T.Kh. chính là tiếng nói (tình cảm nhưng mạnh mẽ) tố cáo tập tục này…
Tại sao những bài thơ của Hồ Xuân Hương, của T.T.Kh còn truyền tụng đến hôm nay, và sẽ mãi mãi? 

Theo tôi, bởi vì giá trị tự thân của những bài thơ đó. Là những bài thơ của “Những tài hoa thi khách chạm tay đời,” theo cách nói của Vũ Đức Tô Châu.

_______

Chú thích:
(*) Vì hiện tượng T.T.Kh. gây chấn động lớn trong sinh hoạt VHNT, thời tiền chiến, nên đã có rất nhiều bài viết về hiện tượng này. Thậm chí, thời đó, có người còn nhận mình chính là người đàn ông trong mấy bài thơ của T.T.Kh. nữa.

Ở đây, chúng tôi chọn gửi tới bạn đọc, tư liệu, tương đối chừng mực, khách quan, mặc dù cũng không chứng minh được tính xác thực của tư liệu. Đó là bài của Hoài Thanh – Hoài Chân. Trích từ tác phẩm “Thi Nhân Việt Nam”:

“Hồi septembre 1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một chuyện ngắn của ông Thanh Châu: Hoa ti gôn. Ít ngày sau tòa báo nhận được một bài thơ nhan đề Bài thơ thứ nhất, rồi lại nhận được bài nữa: Hai sắc hoa ti gôn. Hai bài đều ký T. T. Kh. và đều một nét chữ run run. Từ đấy tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T. T. Kh. ở đâu. 

“Nhưng sau khi hai bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có đến mấy người nhất quyết T. T. Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho hai bài ấy là những áng thơ kiệt tác. 

“Nói thế đã đành quá lời, nhưng trong hai bài ấy cũng có những câu thơ xứng với vẻ lâm ly của câu chuyện. Cô bé T. T. Kh. yêu. Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á. Cô kể: những buổi chiều thu, đứng dưới dàn hoa ti gôn,

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, 
Thở dài trong lúc thấy tôi vui; 
Bảo rằng: "Hoa giống như tim vỡ, 
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"


(…)


“Từ đó mùa thu qua, rồi mùa thu qua, nàng vẫn luôn luôn tưởng nhớ, nhưng tin buồn chàng nào có hay; cho nên nàng tự hỏi: 

“Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, 
Trời ơi! người ấy có buồn không?”

“Một nỗi đau đớn trần truồng, không ẩn sau liễu Chương Đài như nỗi đau đớn của nàng Kiều ngày trước. 
“Cho đến hôm nay, xem chuyện, tình cờ lại thấy cánh hoa xưa. Nàng không sao cầm lòng được:

Cho tôi ép nốt dòng dư lệ 
Nhỏ xuống thành thơ, khóc chút duyên!”\


"Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết 'con người vườn Thanh' bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?" 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 15078)
Ẩn, trốn rét mướt quận Cam, những ngày cuối năm 2008, trong nhiều lớp áo dạ, Ngọc Hoài Phương hào hứng kể về cánh cửa túc-cầu-Trương-Trọng-Trác. Cánh cửa mở vào sân vận động trường Pétrus Ký
02 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 21010)
Với tôi, trừ những người đến với thi ca như một thời thượng, làm dáng, hoặc, một cuộc du ngoạn ngắn hạn thì; làm thơ là một lao động (tinh thần,) vất vả. Một thao tác trí tuệ ngặt nghèo. Thường khi bất lực. Đuối sức.
01 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 21751)
Cuối năm 1970, một buổi sáng khi tôi đang ngồi ở chiếc bàn quen thuộc, kê gần một cây cột của café La Pagode, ở ngã tư đường Tự Do và Lê Thánh Tôn, Saigòn cũ, với Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh
01 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 22722)
tôi không tin. không tin. không tin. không tin. không tin… ngay khi cả Hoa Thịnh Đốn xác nhận: người đàn ông kia đã đổ, xuống. đổ, xuống. đổ, xuống.
31 Tháng Mười Hai 200912:00 SA(Xem: 23702)
Hôm nay, đọc lại những trang văn của Lữ Quỳnh, tôi cũng còn nghe được tiếng gọi rộn rã thanh niên, đi ra từ trái tim sóng sánh nhiệt-hứng-trẻ-thơ tình bằng hữu.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17072)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12277)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19012)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9195)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8361)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 623)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 996)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1186)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22481)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14022)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19191)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7908)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8825)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8505)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11073)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30726)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20822)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25521)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22917)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21741)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19800)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18062)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19261)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16927)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16119)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24517)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31963)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34938)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,