(Tiếp theo kỳ trước)
Qua nội dung của “Những ghi chép ở tầng thứ 14” (NGCOTT#14) của Thận Nhiên, tôi thấy tầng lầu này có rất nhiều cửa sổ. Chương thứ hai cho thấy có một cửa sổ lớn, ngó xuống cái mà tác giả ghi nhận rằng: “Việt Nam là một cường quốc về thơ”.
Với tiểu đề “Thi Sĩ”, từ cửa sổ đó, Thận Nhiên không che dấu được sự thất vọng ở mức độ thê thảm, khiến ông không có chọn lựa nào khác hơn là mang vào những trang văn xuôi chua xót của mình, tính giễu nhại, cho bớt phần u ám (?)
Trang đầu tiên của chương “Thi sĩ”, Thận Nhiên đã “minh họa” một hiện thực xã hội liên quan tới cái gọi là “Việt Nam cường quốc về thơ” rằng: Theo lời kể của thân phụ nhân vật xưng “tôi” thì mới đây thôi, trong số những người khẳng định “thế mạnh” dân Việt là… thơ thì, có một quan chức lớn, kiêm thi sĩ vung hai tay lên trời thành một vòng tròn, đầy tính biểu tượng và quyền lực.
Quan chức lớn, kiêm thi sĩ của xã hội VN hôm nay quả quyết rằng:
“Thơ của chúng ta, thi ca của đất nước chúng ta, phải là có âm thanh và lả lướt, vừa dịu dàng, mà vừa phải cuồn cuộn, vừa vang rền. Tư tưởng thì phải cao vời, phải thanh thoát, mà chấn động lương tri, mà lay chuyển tâm thức của toàn thể nhân loại! Đó là tầm cao của Đại Việt thi!...” (NGCOTT#14, trang 15)
Chỉ ít dòng sau, vẫn chủ tâm phóng lớn niềm “hãnh diện / xấu hổ” của cái gọi là “vương quốc thơ”, Thận Nhiên lưu ý: Bạn có thể phạm tội giết người nhưng không thể phạm tội chê thơ kẻ khác dở. Đó là một tội ác ghê gớm, rất khó được tha thứ. Tác giả cảnh cáo:
“Khi làm điều đó, bạn không chỉ hủy diệt sinh mệnh của một con người mà bạn đang đẩy ít nhất một linh hồn xuống hỏa ngục của sự khốn khổ, đau buồn, hổ thẹn đời đời. Nhiều khả năng linh hồn ấy chính là linh hồn của bạn...” (NGCOTT#14, trang 16)
Có dễ vì đề cập tới thơ mà, căn bản của thơ là tinh chất của chữ, nghĩa, cho nên Thân Nhiên đã “nhân tiện” đề cập tới sự xuống dốc của từ ngữ Việt Nam - - Nếu không muốn nói là “bức tranh từ ngữ Việt Nam” ngày càng rách nát, nhem nhuốc ở mức độ khó tưởng tượng, nếu so sánh với quá khứ. Vì đâu, có hiện tượng phá sản đau lòng này?
Theo nhà văn Thận Nhiên, nhìn xuống từ một trong những cửa sổ lớn từ tầng # 14 nơi ông tạm cư ngụ thì: Căn bản, con người vốn có khả năng về thể chất - không bị khiếm khuyết các bộ phận phát âm như lưỡi và thanh quản - để nói ra những suy nghĩ của mình. Nhưng hiện trạng xã hội hôm nay của “vương quốc thơ VN” là:
“… nhưng hắn bị đe dọa, thậm chí nghiêm cấm thực hiện điều đó. Có những kẻ bất chấp sự nghiêm cấm và phải trả giá cho sự ương bướng đó, họ bị trừng phạt. Hình phạt là sự tước đi khả năng phát biểu. Khi đó, cái miệng chỉ còn chức năng ăn, và bị tước đi chức năng nói…”
Kế tiếp, so sánh với thực trạng của đời sống xã hội VN, chỉ mới 30 năm trước đây, tác giả ghi nhận rằng: Ở thời điểm đó, chẳng những đã đành không được nói, mà con người còn không được suy nghĩ. Người ta luôn quan sát, dò xét lẫn nhau, để tìm hiểu xem kẻ kia có đang suy nghĩ gì không, nếu có thì hắn đang nghĩ những gì. Con người không được suy tư trái với quy định, những nội dung, mà hắn được nhà cầm quyền cho phép hắn suy tư. Hắn suy tư khác đi, thì hắn không phải là con người xã hội chủ nghĩa; không phải con người xã hội chủ nghĩa, thì không xứng đáng trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, là phải bị loại trừ.
Chỉ cách một đoản văn, ở cùng một trang sách, Thận Nhiên đã trở lại “chủ đề” thi sĩ, trong tiểu thuyết (NGCOTT#14) của ông, như “một ám ảnh không rời” theo cách nói, đã bắt đầu nhuốm màu “ước lệ” hôm nay:
“… Thay vì cúng giỗ bằng thực phẩm thì người Việt có thể cúng nhau bằng những bài thơ; có khi chúng là những bài văn vần dài được gọi là điếu văn, hay hịch, hay trường ca. Cha tôi từng thấy những dải lời thơ màu xám tối bay la đà trong trong làn hơi nước đục mờ của buổi sáng sớm tinh sương, chúng bay trên đầu đoàn người đưa ma. Chúng bay theo họ trên những con đường tối om từ làng mạc thôn quê hay từ thành phố còn lù mù ánh đèn đêm chưa tắt tới bãi tha ma…” (NGCOTT#14, trang 16, 17)
Để rõ hơn phần tương quan hữu cơ giữa hai “lực” đối chọi, tinh thần và vật chất, nhà văn Thận Nhiên ghi nhận trên bàn thờ người quá cố: Bên cạnh nải chuối, chén cơm, cái trứng luộc, ly rượu trắng, bát hương với những nén hương cháy dở có tàn tro cong cong, là một bài thơ tiếc thương người quá cố. Bài thơ luôn luôn được viết dở dang trên một tờ giấy thếp vàng, hoặc hiện đại hơn thì được in ra khổ giấy A4 từ máy vi tính. Bài thơ phải dở dang, phải chưa bao giờ hoàn tất, chưa bao giờ viên mãn, như những cuộc vui dở dang mà vong linh đó chưa hưởng hết ở cõi tạm này mà phải ra đi.” (NGCOTT#14, trang 17)
Nhân vật xưng “tôi” trong tiểu thuyết NGCOTT#14 của nhà văn Thận Nhiên, vẫn mượn lời “cha tôi”, tựa để bảo kê cho những điều được ông ghi lại, có được độ khả tín cao rất:
“… Cha tôi nói ‘90% những người tù ở Việt Nam là thi sĩ. Và ngược lại, 99% thi sĩ là những tù nhân thực thụ hay ít ra là những kẻ có nhiều tiềm năng sẽ trở thành tù nhân. 99% thôi, vì 1% còn lại là những kẻ không làm thơ nhưng đạo thơ của người khác.’” (NGCOTT#14, trang 19.
Theo tác giả thì điều đáng nói, là mọi tài liệu quan trọng và khả tín mà ông có được đều cho rằng ở VN có vô số những con ma thi sĩ. Những con ma thi sĩ này, làm thơ từ lúc còn bí mật hoạt động cách mạng ở trong hang, cho đến khi cách mạng thành công, thì vừa tiếp tục làm thơ vừa nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách của quốc gia trên các cao ốc chọc trời phải đi lên bằng thang máy.
Tác giả liệt kê những đóng góp “tận tụy” của những con ma thi sĩ vừa kể trên là:
“Ca ngợi lãnh tụ và chính phủ, họ làm tụng ca. Chống quân xâm lược và kêu đòi dân chủ, họ vừa xuống đường vừa làm thơ. Ôm hận trong ngục tối chờ ngày thay đổi vận nước, họ làm “ngục thi”. Đám cưới, đám tang thì thi ca phục vụ cho việc hiếu hỉ. Đi giải quyết sinh lý xong thì họ làm thơ thiền để cho tâm hồn thanh thản. Mách qué với hàng xóm thì làm thơ tự trào. Nỉ non với vợ thì làm thơ tự thán. Nếu kẹt đạn, chưa tìm ra tứ thì chỉ cần mua tờ báo, đại loại như tờ Công An chẳng hạn, là sẽ có dư cảm hứng để làm thơ chống tham nhũng…” (NGCOTT#14, trang 19)
Những chiếc cửa sổ lớn ở tầng thứ 14 của nhà văn Thận Nhiên, không chỉ mở xuống những hiện tượng đặc thù của xã hội VN, ngày một bát nháo, thất lạc hồn tính mà, ở tầng thứ 14 của mình, ông còn có những cánh cửa mở vào sinh hoạt đa dạng, đa tầng, tiêu biểu cho hiện thực xã hội hôm nay, của một số người trẻ gốc Việt, sinh sống ở hải ngoại. Muốn hiểu rõ suy nghĩ, tập quán cụ thể của lớp người trẻ Việt di dân này, và nhất là nếu muốn biết họ thực sự nghĩ gì khi trở về viếng thăm quê hương nguyên gốc thì, tôi trộm nghĩ, không có những chương sách cụ thể nào hơn, trong NGCOTT#14 như các chương “Hai trái chuối”, “Đêm phố Tây”, “Người / Ma” hay “Gia Tộc”, “Thân Thị Lễ”…
Tưởng cũng nên nói thêm về sinh hoạt của họ, ở quê người, nhất là quan niệm “sex” thì tôi nghĩ, không chương nào hơn chương có tiểu đề “Lucia”… Một trong nhiều chương sách cho thấy bút pháp của Thận Nhiên tỉnh táo, điềm tĩnh đến không ngờ.
Mặc dù tác phẩm của Thận Nhiên được minh thị là “Tiểu thuyết” nhưng đa số những chương sách trong NGCOTT#14, đều cho tôi cảm tưởng đó là những trang tự sự kể của tác giả, hoặc chí ít, nó cũng phản ảnh phần nào đời thực của chính ông? Điều đáng nói hơn cả, tôi chưa thấy một nhà văn nào, có những quan sát, ghi nhận chi tiết như thế giới văn xuôi Thân Nhân. Ông để ý từ tàn cong của cây nhang, tới những thực phẩm mà người ta đặt lên bàn thờ, để cúng người quá. Ông cũng phân biệt rạch ròi từng loại thơ được thân nhân đặt lên bàn thờ, bên cạnh những phẩm vật truyền thống, cúng người quá cố. Những điều tôi mới ghi nhận từ thổ ngơi chữ, nghĩa của Thận Nhiên, không hẳn là chưa hề có người nói. Nhưng chi tiết như những thước phim sống động, có dễ ông là người đầu tiên (?)
DTL
(Còn tiếp một kỳ)