tiếng kêu nào/ bên kia thời tiết
một góc vườn,
em,
đỏ mẫu đơn tôi
môi: nguyệt quế, lỡ thì; tay: ở trọ
một góc vườn, em, đỏ mẫu đơn tôi.
thơ dtl.
1.
Nằm trên trục lộ chính nối liền nhiều thành phố nhưng khi cây cần chặn bị bật lên bởi chiếc remote control, con đường rợp tàng khuynh diệp với những cành lớn nắm tay nhau, rì rào trên cao; cho ta cảm tưởng đột ngột lạc chân vào một khu rừng cấm; hoặc một lãnh địa cách biệt hẳn dòng sống, bên ngoài, xô bồ chảy xiết. Con đường chạy thẳng tuốt tới bờ tường ngang, lên rêu cùng những lằn trắng ngoằn ngoèo, tia ra nhiều đường chỉ nhỏ, chấm dứt bằng những hình lá bé xíu in hằn tựa khắc ăn xuống mặt đá. Có thể đó là những nhánh cây thằn lằn, quá lâu, không người chăm sóc, chết khô, rớt xuống. Con đường từ điểm cụt, tẽ ra như chân rết; dẫn tới những khu nhà làm toàn bằng cây. Mỗi khuôn cửa uốn cong như vòm mái của những tòa lâu đài cổ thâu nhỏ. Con đường nhỏ, rụng đầy lá magnolia. Những chiếc lá to bản, chưa kịp vàng, bị mưa, gió bất thường mấy ngày qua, hái sớm, ném, rụt xuống lối đi, làm thành lớp thảm xanh, ủng; sũng tiếng nước kêu dưới những bánh xe lăn chậm, hay bước chân thả bộ lặng lẽ.
Người đàn ông vừa chăm chú quan sát khung cảnh rợp xanh, mát lạnh của cánh rừng, vừa hờ hững hỏi:
“Em về đây hồi nào?”
“Cũng cả năm rồi anh,” người con gái trả lời, mắt không rời khoảng không phía trước, tựa nàng đang canh chừng một bất trắc nào đó, cuối đường.
“Một năm?”
“Dạ, vâng. Đúng hơn là một năm, một tháng, 10 ngày.” Người con gái thở ra.
“Một năm giữa khu rừng già này, với dòng sống chảy xiết bên ngoài,” người đàn ông nói, tuồng với chính ông ta.
Gió hái thêm những giọt nước lì lợm ẩn nấp đâu đó trong những tàng khuynh diệp cao tít, ném xuống kính xe. Người con gái bật nút cho chiếc gạt nước xua qua, xua lại. Tiếng cao su chà sát tấm kính mỗi lúc mỗi khô, bỏng hơn.
“Dòng sống bên ngoài chỉ là lưu lượng xe... Nó không đáng sợ bằng những thứ lưu lượng khác.”
“Em muốn nói...”
“Lưu lượng kỷ niệm, lưu lượng quá khứ quá tải trong tâm hồn, trong trái tim con người.”
“Vì nó cũng chẩy xiết?”
“Không.”
“Quá chậm?”
“Cũng không, anh...”
Người con gái kéo dài tiếng anh. Người đàn ông nghe xa lạ, chưng hửng như tiếng kêu ngắn, thình lình cất lên rồi biến mất.
Khuôn mặt Miện ửng đỏ từng phần. Tôi đọc được sự bối rối qua hai bàn tay hết đặt trên volant, lại thả ra; vuốt tóc, tìm kiếm vật gì đó nơi thùng băng ngăn cách hai băng ghế. Miện càng tỏ ra chăm chú nhìn đường đi, càng khiến tôi tin tâm trí nàng ở một nơi khác. Dù cố giữ vẻ thản nhiên, tôi hiểu, tôi cũng đang bối rối.
2.
Người đàn ông đổi thế ngồi. Ông nghiêng đầu ngó sang phía người con gái. Nàng vẫn với những bối rối, che đậy vụng về.
“Điều ghê rợn, em nghĩ, không phải là tốc độ. Mà là khoảng chân không. Khoảng chân không không trọng lực. Không tốc độ. Hay nếu có thì đó là thứ tốc độ của thinh lặng, của yên ắng. Kỷ niệm hay quá khứ chẳng hề có trọng lực. Nó cũng không hề cất tiếng, dù rất khẽ, bao giờ.”
Người đàn ông nhăn mặt. Những vết nhăn biến khuôn mặt anh thành một tấm vải lỗ mỗ nhầu nát. “Anh không hiểu! Thực sự, anh không hiểu.”
Nơi người con gái, mường tượng vừa nở một nụ cười. Nụ cười thoáng, dù sao cũng có khả năng làm thư dãn phần nào những căng thẳng hay bối rối nơi nàng.
“Dạ, cũng dễ hiểu thôi anh. Em nói kỷ niệm, em nói quá khứ không có trọng lượng, không có tốc độ nhưng nó lại có cái phần lặng thinh, phần câm nín của thời gian. Kỷ niệm hòa với thời gian thành một thứ dung dịch, hãy cứ tạm gọi như vậy, ăn luồng, ăn ruỗng đời sống, ngày tháng ta. Trong câm lặng như mưa, nắng, kỷ niệm có khả năng ốc xít hóa thịt xương, gân cốt, tương lai ta. Đấy, anh nghĩ coi, nó có đáng sợ không nào?”
Chiếc xe bị chặn lại bởi bức tường cao, lên rêu. Bức tường nhác trông như bức tranh sơn dầu mà, mầu sắc chính là mầu rêu xẫm. Người con gái rẽ trái. Đường nhỏ hơn. Những ngọn cây me dại, tàng rộng, rợp những chiếc lá nõn, hình thuyền. Người đàn ông rơi hẫng vào im lặng. Nếu bảo ông ta đã bị nhận sâu xuống vực tối im lặng, cũng không là lời nói quá.
Tôi vẫn nghĩ, ý nghĩa của sống, chết đâu chỉ nằm nơi sự tắt thở của trái tim, sự lên mùi một thân xác. Nhiều khi người ta đã chết giữa khi còn đang sống nhăn, ngay khi kẻ đó còn đi lại, ăn uống, hít thở, kiếm tiền, làm tình... Mặc dù, chết, trong một số trường hợp nhất định nào, mang lại ý nghĩa hằng cửu của những mầm sống thiết tha và, rất mực buồn bã.
Tôi đã nghĩ tới cái chết, ở lần gặp gỡ Miện sau cùng, dù cho mỗi lần nghe lại băng nhựa ghi âm tiếng hát Từ Công Phụng, trong tình khúc Đừng Nữa Nhé, Chia Lìa, lòng tôi còn bị nỗi bùi ngùi khuấy động. Đó là một trong những bài thơ tôi viết dưới vòm tối của đôi mắt Miện, mưa nâu. Đó là một trong những bài thơ, tôi viết trên chăn gối tình yêu chúng tôi, nắng tím.
cũng em nữa! - ngực chiều: chim, tắt thở
gai ăn năn cào rách buổi trưa người
môi: nguyệt quế, lỡ thì: ở trọ
một góc vườn, em, đỏ mẫu đơn tôi
cũng em nữa! - nắng xanh mà gió, tím
tôi thọ thương tiếng hát cẩn: đêm, hoa
sóng khua đập: cũng chỉ đôi bờ đá
em đập khua: cùng khắp trái tim, xa
cũng em nữa! - tình cờ gươm, dáo đó
xẻ, phân tôi thành triệu miếng tương tư
ai dám bảo thịt, da không biết khóc?
nhìn tôi đi! em sẽ hiểu mưa, về
...
Đó là thơ tôi, viết trong những ngày sống ở một nơi chốn rất xa Miện. Bài thơ như một tổng hợp những rung động, suy nghĩ, ghi nhận từ nhiều hình ảnh, từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau. Miện không hề là nguồn lực duy nhất. Bên cạnh Miện, còn có Thuấn, còn có Suối Muộn, còn cả nỗi giận hờn đời sống, oán thán định mệnh một cách quá khích... Chúng vốn tiềm phục suốt một hành trình đằng đằng năm tháng của đời tôi. Nhưng Miện vẫn là dòng chính. Miện vẫn là sóng đầu/ nguồn khởi. Thịt da bài thơ, vẫn là thịt da Miện. Nhịp đập bài thơ, vẫn là nhịp đập trái tim Miện, ngu ngơ, mẫn cảm tội nghiệp. Nắng, gió bài thơ, vẫn là nắng, gió Miện.
3.
Xe chạy chậm mà còn như trượt trên tấm thân lá õng nước. Thêm vài ngã rẻ nữa, người con gái lái xe vào khu carport, một đầu mái, bằng nhiều miếng gỗ kết lại, ghếch vào bờ tường... Bước xuống, người con gái chỉ chiếc hành lang ngắn, ngay bên cạnh, dẫn vào ngôi nhà condominium. Tầng dưới là phòng ăn, phòng khách, bài trí bằng tranh ảnh, bàn ghế loại contempo, chủ yếu dùng kính và hai mầu đen trắng. Người đàn ông nói:
“Một nơi chốn sang trọng.”
Người con gái gật đầu:
“Dạ. Anh Thạnh lo cho em.”
“Một người tốt bụng.”
Người con gái vứt chùm chìa khóa lên mặt bàn ăn. Những thỏi sắt mỏng lết trên kính dầy, bật nhiều tiếng kêu đục.
“Không hẳn vậy đâu, anh ạ.”
Người đàn ông ngắm nhìn một số bức tranh lộng kính, trước khi lại bộ ghế salon, ngồi xuống. Người con gái đặt trước mặt anh chiếc gạt tàn thủy tinh.
“Anh hút tự nhiên.”
“Anh Thạnh cũng hút thuốc sao?”
Người con gái ngước nhìn người đàn ông. Vẻ ngạc nhiên tan biến rất nhanh trên gương mặt mệt mỏi, và lớp nọng đã bắt đầu lộ dưới chiếc cằm nhọn của nàng.
“Không anh. Anh Thạnh không ở đây. Em đấy.”
Người con gái vừa nói vừa đi vào bếp. Nàng bật đèn. Qua khung kính lớn, người đàn ông nhìn thấy một khoảng trời xanh nơi miếng sân nhỏ. Miếng sân đầy lá và, búp magnolia, còn xanh. Buổi trưa im. Không cả tiếng thời gian.
Tôi đã nghĩ tới cái chết, ở lần gặp nhau sau cùng. Mặc dù: chết, trong một số trường hợp nhất định nào, mang lại ý nghĩa hằng cửu của mầm sống thiết tha, và, rất mực buồn bã.
Lần gặp nhau sau cùng, nơi thành phố Lara. Chúng tôi gọi cái thành phố nằm cao trên mặt biển, chiều chiều hắt chiếc bóng rừng cây và núi đá, xuống một dòng nước lũ, là thành phố Lara. Thành phố trong trí tưởng / tiểu thuyết / thơ của Pasternak. Thành phố bạt ngàn những cánh đồng hoa vàng. Thành phố thắp tới chân trời, những ngọn nến vàng trên từng bước chân lãng mạn thiếu phụ của Lara. Miện kể, ngay những giờ phút riêng biệt hiếm hoi trong suốt bao năm tháng cuộc tình của hai đứa, dường vẫn có kẻ thứ ba chen giữa. Miện bảo, ở đâu, chốn nào, bao quanh chúng tôi, cũng người ơi là người!
Miện kể, ngay những giờ phút riêng lẻ hiếm hoi trong suốt bao năm tháng của cuộc tình hai đứa, Miện cũng vẫn thấy đâu đó, trong mắt/hơi thở/giọng nói tôi, kẻ thứ ba. Người vắng mặt. Miện nói, không lẽ cuối kiếp, Miện vẫn không thể có một lần, được sống như những đôi tình nhân trẻ tuổi.
“Miện thèm một lần được nghe đất đá dưới lưng, cành lá trên ngực...”
Tôi hiểu Miện nói gì. Tôi biết Miện chân thực, rất chân thực trong bày tỏ của nàng. Bởi, Miện cũng cho tôi cảm giác ấy. Cảm giác ngày mai bất định. Ngày mai xa lắc. Ngày mai, ngày Miện hoàn tất được trách nhiệm làm chị, trách nhiệm làm con.
Tôi không có khả năng chập chờn giữa tình yêu và bổn phận. Tôi không có khả năng sống chìm nổi giữa tình yêu; và, những dự tính đầy tính cao thượng hay trách nhiệm. Tôi đồng ý hoàn toàn với Langston Hughes, khi ông bảo I cannot live on tomorrow’s bread. Với tôi, tình yêu là mù lòa/điên rồ/xuẩn ngốc. Tôi đã chẳng từng mù lòa/xuẩn ngốc/bao lần rồi sao?
4.
Bữa ăn trưa gồm những đồ ăn to go, được bày biện trên bàn ăn. Người con gái cởi tablier, rửa tay, mở nhạc, trước khi ngồi xuống chiếc ghế đối diện người đàn ông. Nàng hỏi:
“Anh có muốn nói một lời gì trước bữa ăn hơn hai năm có lại giữa chúng ta chăng?”
Người đàn ông lắc đầu:
“Anh tưởng mọi điều cần, em đã nói hết. Người nhà đã nói hết. Có chăng chỉ còn lại lời chúc mừng. Nhưng...”
“...”
“Để làm gì, khi ngay lời chúc mừng, nếu nói ra, cũng chỉ cho thấy sự giả dối tới trơ trẽn của mình.” Người con gái cúi đầu, làm dấu thánh giá. Cô cầm nĩa và dao, cắt miếng thịt gà trong đĩa của ông. Cô lẩn tránh đôi mắt soi bói của ông:
“Anh không thích thịt gà. Em nhớ. Nhưng chúng ta không có nhiều thời giờ. Em không thể chạy ngược đường ra Bolsa tìm mua sườn nướng, hay thịt bò cho anh. Mời anh.”
“Không sao. Còn thấy nhau... Được thế này...” Người đàn ông cầm dao. Anh bẻ miếng bánh mì, quết bơ. Người con gái chăm chú cắt thịt ở chiếc đĩa của cô; tuy không hề cho thấy dấu hiệu sẽ ăn những miếng thịt bị cắt nhỏ kia.
Người con gái chăm chú nhìn người đàn ông ăn, uống. Nĩa và dao vẫn hờ hững trong tay cô. Chợt người đàn ông khựng lại:
“Em không ăn?”
Người con gái mỉm cười, không hề chớp mắt:
“Em muốn được nhìn anh ăn. Lâu quá... Lâu quá em không được nhìn anh ăn.”
Người đàn ông có phần ngượng nghịu. Ông nhai vội, nuốt phần bánh mì trong miệng:
“Anh tưởng đã chẳng còn điều gì quan trọng nữa, với em.”
Người con gái lắc đầu, thở nhẹ.
Buổi trưa, rời sân giáo đường, chúng tôi phải leo ngược con dốc dẫn lên lộ cái. Con dốc như được dát vàng hai bên bởi thảm cúc Phi châu, từ đáy dốc chạy ngược lên tới đỉnh. Đó là loại cúc cho những bông hoa lớn, cánh hoa vàng xậm, vạm vỡ; đài hoa nhỏ xíu, đen lánh, như điểm xuyết cho mầu vàng và sức mạnh của bông hoa.
Tới đầu dốc, Miện cúi xuống ngắt một bông cúc, mở bóp... Nghĩ sao, Miện lại thôi. Nàng vò nát bông cúc, thả xuống đáy dốc.
Giữ Miện lại, tôi hỏi, chuyện gì vậy? Miện lắc đầu, bảo không. Không có cả.
“Có nhiều thứ chúng ta chỉ có thể đem theo trong lòng mà, không thể giữ, mang giữa đời sống,” Miện kết luận.
Miện có lý. Tôi không thể gửi thêm vào tâm hồn, vào trái tim Miện, những gì liên quan tới Hạnh. Tôi không thể cho Miện biết, tôi không thể quay lưng trước lời kêu cứu tuyệt vọng của Hạnh. Tôi không thể quay lưng trước cuộc tình bị bóp cổ tức tưởi, cùng với Sài Gòn, cùng với phần thịt xương kỷ niệm, thanh niên tươi rói, mười chín năm trước. Không phải Hạnh xứng đáng hơn những người đàn bà khác, nhận đón sự cấp cứu. Không phải Hạnh xứng đáng hơn những người con gái khác, nhận đón biệt lệ, hưởng dụng sự hy sinh, từ bỏ cuộc sống tự do của tôi. Có chăng, trong suy nghĩ của tôi, Hạnh chính là hiện thân của những bất hạnh ấu thơ/ niên thiếu / bước chân tình yêu thứ nhất. Bất hạnh từ bậc thềm đầu tiên đi vào cuộc tình, không lối thoát, với một người như tôi. Có chăng, trong suy nghĩ của tôi, Hạnh đã là người vợ ân, nghĩa. (Dù chúng tôi chưa một ngày chính thức vợ chồng. Dù tôi, chưa một hạt máu gửi nơi Hạnh. Vậy mà nàng đã lặng lẽ để tang tôi, khi bạn bè cho Hạnh biết tôi đã bị bắn chết ở chân Cầu Xa Lộ, buổi trưa 30, Tháng Tư...)
Miện có lý. Rất nhiều thứ chúng ta chỉ có thể đem theo trong lòng mà, không thể giữ, mang giữa đời sống. Và, tôi biết, tôi không thể giữ, mang Miện giữa đời sống, nhưng tôi đã và, sẽ còn đem theo Miện, trong tâm hồn, trong trái tim, giờ phút cuối.
6.
Người đàn ông buông muỗng, nĩa. Lúc này, ông mới phát hiện trên bàn ăn, khuất sau bình hoa tulip, là gói thuốc lá cùng loại với thứ thuốc ông quen hút và, bao diêm giấy ai đã dùng quá nửa. Ông vói tay cầm lên gói thuốc, xong bỏ lại chỗ cũ. Người con gái cúi xuống đĩa thức ăn còn nguyên vẹn của cô.
“Em.”
“Dạ.”
“Ăn đi.”
Người đàn ông ra lệnh.
Người con gái ngước lên, thật nhanh, rồi lại cúi xuống phần ăn của mình.
“Anh muốn thấy em ăn . Dù chỉ một chút.”
“Vâng,”người con gái miễn cưỡng trả lời.
“Với điều kiện anh phải ăn tiếp, với em.”
“Đồng ý. Anh ăn đây.”
Người đàn ông cầm lên muỗng nĩa của mình trong tư thế sẵn sàng trở lại bữa ăn. Mắt ông không rời khỏi người con gái.
“Đừng nhìn em như thế. Anh ăn đi.”
“Còn em?”
“Em ăn đây. Em ăn chứ. Em ăn để mừng gặp anh. Chúc mừng cho chúng ta. Chúc mừng điều anh muốn chúc mừng cho em mà không tiện nói.”
Nhiều lần, tôi đã úp mở cho Miện thấy, tôi sẽ thay đổi. Tôi phải chọn lựa. Tôi không thể tiếp tục cuộc sống mà mỗi đứa một đầu nguồn, bất trắc. Mỗi đứa một cửa biển, phong ba.
Tôi bảo Miện, tôi già rồi. Tôi không còn sức lực tuổi trẻ/thời gian để hoài hoài ném mình lên ngọn sóng phiêu lưu, ngay kẻ trong cuộc cũng không nhìn thấy đoạn kết thúc. Tôi không thể sống bằng miếng bánh ngày mai sẽ có!
7.
Vừa nói, người con gái vừa xiên chiếc nĩa của cô vào miếng thịt to nhất. Cô đưa lên miệng. Đúng hơn, cô thồn nó vào miệng, cùng lúc, người đàn ông thấy những giọt lệ lăn nhanh, qua hai cánh mũi, qua môi... Những giọ lệ nóng? Những giọt lệ rơi xuống thấm ố tấm khăn ăn.
“Miện...”
“...”
“Ngẩng mặt lên anh coi.”
Người con gái miễn cưỡng ngước đôi mắt đẫm ướt nhìn người đàn ông. Đôi mắt cô đẫm ướt oán hờn. Đẫm ướt tủi thân. Đẫm ướt ê chề. Đẫm ướt nhục nhã. Cô mỉm cười. Nụ cười nở trên đôi môi méo xệch với hai má lùng bùng thịt gà.
Người con gái mang nụ cười, thịt gà và nước mắt chạy vào phòng ngủ.
8.
Trước khi thả người đàn ông xuống nơi để xe của ông, người con gái nói:
“Em quên kể anh nghe mẹ và hai em đã tới.”
“Họ hiện đang ở đâu?”
“Arizona.”
“Em đã thông báo trả nhà.”
“...”
“Em cũng đã cho Thạnh biết.”
“Em điên chưa?”
“Có thể. Thạnh cao thượng hơn hình dung của bất cứ một người nào. Thí dụ, anh. Nhưng em không thể... Em không thể bắt Thạnh chờ đợi lâu hơn. Mai em đi Arizona.”
“Đó là lý do em tìm gặp anh hôm nay?”
“Xin anh cứ coi là như vậy?”
Người con gái đáp, hờ hững. Cô tiếp:
“Liệu anh có lời chúc mừng nào dành cho em? Hãy cho em một lời chúc mừng dù giả dối. Bởi vì, có thể, ta sẽ chẳng bao giờ còn có dịp thấy nhau, để cho nhau những lời chúc mừng giả dối, khác.
viết hoa một chữ không ai hiểu
viết hoa một chữ không ai hiểu
Phật bảo kinh mà không phải kinh
thơ dtl.
Bóng tối chĩu nặng khi vầng trăng khuya rút lui khỏi bầu trời thấp. Bản tin thời tiết cuối cùng không dự báo trận mưa nào sẽ tới trong đêm, hoặc sáng sớm ngày hôm sau. Những ngày mưa dường đã lùi xa. Nhưng trong thần trí ngầy ngật, mưng mưng cơn sốt mỗi buổi chiều, từ nhiều ngày qua, tôi vẫn cảm thấy rình rập như mơ hồ đâu đó, một cơn mưa mưa lớn. Tôi không nghĩ lớp da nhăn nheo, khô cỗi của tôi có một cảm ứng đặc biệt nào với những lớp hơi nước tan, quầng trong không khí. Tôi không nghĩ mấy cành sung gỡ, gọi nơi khung cửa sổ phòng Giang, phòng anh chị Cường, tiếng gù gù bất thường của mấy con chim cu trong chiếc chuồng chông chênh giữa vườn, cảnh giác tôi, đêm sắp hết, có liên hệ gần xa nào, với một dự báo thời tiết.
Tôi đã nhọc công dỗ dành giấc ngủ mình nhiều giờ qua. Những con giờ mỗi lúc một lạnh hơn; trườn mình qua những khe cửa hư trộm sạch của tôi tất cả những đàn trừu mà, tôi đã đếm được trong trí. Tôi cũng không nghĩ, hơi thở đều, sự rơi sâu xuống triền dốc giấc ngủ bình an, thỉnh thoảng tựa khựng lại giây lát bởi những hồi nghiến răng hoặc nói mớ ngắn của Xù, bên cạnh, cho tôi thấy rõ hơn sự cô đơn, lạc lõng của mình, giữa ngày tháng không chằng rễ này... (Tôi hiểu cô đơn, cảm giác ghẻ lạnh có khả năng làm sai lệch mọi nhận thức thời tiết của ta.) Tôi hiểu, gió sẽ rạch sâu hơn những đường rãnh vết thương đã khép miệng, để máu tuyệt vọng chảy tiếp. Tôi hiểu đêm sẽ ngấu, nhiễu hơn trên những nhầu nát, một mình, cô quạnh.
Nhưng không. Rõ ràng không phải vì đêm sắp bàn giao lại cho bình minh những vết cứa hoang mang, những chân gió nẻ nứt hơi giá buốt mà, tôi linh cảm lẩn quất đâu đây, một cơn mưa lớn. Đúng hơn, cơn mưa đã rình rập, đã vần vũ trong thần trí ngầy ngật tôi, từ hơn hai tuần trước.
Có dễ từ buổi tối Dụng điện thoại, báo tin Hựu đang có mặt giữa thành phố này.
Tôi không hỏi Dụng, ngày Hựu đến. Tôi cũng không hỏi ngôi nhà hay số điện thoại Hựu đang ở. Tôi không biểu lộ một cảm xúc nôn nả nào. Tôi cảm ơn Dụng đã cho tôi tin. Tôi ngỏ lời chào mừng (chân thật;) bày tỏ hân hoan (thực sự) cuộc gặp gỡ giữa Dụng và Hựu. Tôi nói, đó là người phụ nữ xứng đáng với bất cứ một tình cảm, quan tâm, săn sóc nào có được từ Dụng. Tôi nói, Hựu là người tôi kính trọng trong mỗi nghĩ tới...
Có thể Dụng không chờ đợi nơi tôi, bày tỏ lịch sự kia. Có thể, Dụng chờ đợi nơi tôi một điều gì, tích cực hơn lòng kính trọng. Nhưng liệu tôi có thể bày tỏ được điều gì hơn thế? Khi đường ta đi đã là đường một chiều; và, mọi nẻo, ngõ tương thông xưa, đã xóa.
Người ta sống, không phải lúc nào cũng được phép đem tấm lòng trung thực mình tới với kẻ khác. Người ta sống, không phải lúc nào cũng được phép ngó lui, dù chỉ để bảo nhau, hãy ngắt một bông hoa biết ơn trong tâm tưởng, gửi tới những góc phố/ những gốc cây (còn sót lại.)
Mọi ngợi ca / nguyền rủa, biết ơn / oán hận luôn đòi hỏi sự đúng chỗ, đúng thời của nó. Cũng như có những điều, đời sống bảo ta, quên đi, ký ức nhắc nhở ta, đừng gió nữa.
Bài học mới mẻ nhất, tôi học được từ sau chia tay Hựu là bài học: không chỉ mỗi đời người, mỗi cuộc tình, mỗi tác phẩm..., thường có cho riêng nó một định mệnh. Mà, kỷ niệm, phải rồi, mỗi kỷ niệm, cũng luôn cho có cho riêng nó một định mệnh như chúng ta vậy.
Đúng hơn, cơn mưa đã vần vũ, đã quành bước trở lại giữa thần trí ngầy ngật tôi, từ hơn hai tuần trước. Cơn mưa, như một người bạn thiết, buồn rầu, đã ở cùng tôi suốt tuổi thơ nắng nỏ. Cơn mưa, như người bạn thiết, buồn rầu, đã ở cùng tôi suốt niên thiếu âm u. Cơn mưa, như người bạn thiết, buồn rầu, đã ở cùng tôi suốt hoa niên sấp ngửa, bất trắc. Tôi không có tên người bạn thiết ấy. Tôi cũng không biết phải gọi cơn mưa đó, tên gì? Mưa tháng hai, nơi góc đường Pasadena, những khuya khoắt trở về một mình, hồn tôi đèo, dốc? Mưa tháng ba trên chiếc cầu vắt sau lưng ngôi nhà người đàn bà có đôi mắt lênh đênh những ngọn lửa tàn, đã ở? Mưa kiếp khác trên vai thang dẫn lên ngang tầm tàn lá nhãn? Mưa đời sau trên bãi xương rồng, dọc theo bờ biển Long Beach, nhấp nhô trong đêm, tựa bầy thiếu nữ nắm tay nhau, lặng lẽ nhẩy múa trong vũ điệu gai nhọn? Hay đó là cơn mưa trong:
này em bồ tát đi trong gió
không ngại trần ai. Ngại nắng mưa?
Dường như tôi viết mấy câu thơ này, trong những ngày mưa bất thường của tháng hai, 1988. Không hiểu lý do gì, tại sao tôi lại có cái liên tưởng giữa tâm Bồ Tát với trái tim nhân gian của Hựu. Không biết đã có liên ảnh nào giữa sự kiện Hựu sốt sắng nhận lời mời của tôi, tham dự tất cả những buổi họp căng thẳng nhằm tìm cách ứng phó với sự kiện chính quyền Thái Lan, lần đầu tiên, cho tầu hải quân kéo thuyền tị nạn Việt Nam ngược vào biển cả.
Không biết đã có liên ảnh nào giữa sự kiện Hựu cương quyết tham dự đoàn biểu tình trước tòa lãnh sự Thái Lan, ở Los Angeles... Dù, Hựu nhận được rất nhiều tín hiệu ghen tuông, hăm dọa từ phía Ấu... Dù, quan điểm riêng của tôi là, không thấy thuận tiện, cần thiết phải có Hựu trong cuộc biểu tình kia. Không biết. Tôi không biết. Dường đấy là lần đầu tiên, tôi mang vào thơ hai chữ Bồ Tát. Bài thơ tôi viết trong những ngày chạy đua với thời gian ở Trung tâm TNĐD, đường Số Một. (Bây giờ trụ sở đó trở thành điểm hẹn quen thuộc của những người nhậu nhẹt.) Tôi nhớ, vì muốn phổ biến trước ngày sinh nhật của Hựu, như một món quà thứ nhất, cho Hựu; kỷ niệm tương lai, cho một hình thành (sóng, gió) nào đó giữa hai đứa, tôi đưa bài thơ cho NXH, đăng trên NV. Khi đưa tờ báo cho Hựu, buổi tối, trước giờ họp, tôi nhận được chút lấp lánh xưa, xưa trên ngọn lửa tàn trong đôi mắt nàng.
Thời gian đó, tôi vẫn còn chung sống với Ấu. Một hôm, không biết do nơi đâu, Ấu có tờ báo. Ấu hỏi tôi, Bồ Tát là ai trong bài thơ kia? Tôi nói dối tỉnh, không ai cả. Và, giải thích thêm cho Ấu hiểu, Bồ Tát, một đẳng cấp tu hành của Đạo Phật, chỉ những bậc chân tu đã thành chánh quả, những chưa muốn về cõi niết bàn. Mỗi vị còn nuôi giữ trong tâm một lời nguyện cứu độ chúng sinh, nên chọn đầu thai trở lại giữa bể khổ... Tôi không ngờ Ấu đã dễ dàng chấp nhận lời giải thích. Có thể do nơi trước đó khá lâu, Ấu đã tập quen với những giờ khắc tôi dành cho kinh kệ mà, hơn ai hết, Ấu hiểu tại sao. Thời gian này, đêm nào, trước khi đi ngủ, tôi cũng đọc Kinh Địa Tạng. Tôi bước vào Địa Tạng Kinh, ngày đầu tiên, sau cái chết của mẹ tôi. Không biết ai đó (mẹ Ấu?) có lần bảo tôi, kẻ nào tụng được một nghìn lần Kinh Địa Tạng, kẻ đó có thể cứu được linh hồn mẹ, cha khỏi sa địa ngục.
Tôi không biết mình đọc được bao lần quyển kinh kia. Tôi cũng không nhớ, mình rời những trang kinh ấy, lúc nào. Nhưng tôi nhớ, động lực thúc đẩy tôi đọc tới lui quyển kinh này, là niềm tin: nơi cõi âm, mẹ tôi sẽ vui lắm. Tôi hình dung bà sung sướng biết dường nào, khi thấy đứa con út lêu lổng, không biết trời cao đất dầy là gì của bà, bỗng dưng cải tâm, hồi hướng.
Tôi không nghĩ mẹ tôi cần tôi trì tụng đủ nghìn lần Kinh Địa Tạng, để khỏi sa vào địa ngục! Một người như mẹ tôi, sau gần thế kỷ làm người, miếng ngon không ăn, vải đẹp không mặc, việc ác không làm, lời nặng không nói... nếu không được lên cõi niết bàn, chắc khó ai có thể hưởng được ơn phúc ấy. Nhưng tôi vẫn kiên nhẫn đọc, đọc, như một bày tỏ chuộc lỗi, trả hiếu mẹ tôi, trong thầm lặng.
Khi biết tôi chịu đọc kinh, Hựu rất hài lòng. Nàng mang cho tôi rất nhiều kinh, đủ loại. Ngọn lửa Kinh Phật cùng ngọn lửa tình yêu Hựu, đìu hiu cháy mềm thần trí tôi suốt những ngày, tháng đó.
Những ngọn lửa mới mẻ này, mang lại cho tôi một số bài thơ, khác hẳn những bài thơ tôi có trong quá khứ. Những bài thơ sau này đọc lại, chính tôi cũng không biết tôi đã bị tiêm nhiễm triết lý Phật giáo; hay rốt ráo, đó chỉ là cái cớ, nguồn sữa, chiếc nôi nuôi nấng tình yêu Hựu thêm lớn?
thiền viện tôi trưng chỉ ảnh em
kinh kệ nghìn pho có một tên
viết hoa một chữ không ai hiểu
Phật bảo kinh mà không phải kinh
thế giới vì em sẽ dịu hiền
biển đời phút chốc bỗng bình yên
cánh chim tịch mịch miền vô niệm
vô chấp, em ngồi như Quan Âm
ba ngàn thế giới quy về đây
vóc ốm em đi. Ngón rất gầy
thấy trong Địa Tạng em và mẹ
Tam Bảo theo tôi: có dáng người
muông thú vì em ở với rừng
tôi vì em ở với Kim Cang
thấy nhau là một, đâu còn ngã
thân chẳng riêng thì, tâm đâu còn riêng
phá chấp: Như Lai ở dưới trần
hiện thân Bồ Tát cứu nhân gian
cây oan khuất vẫn nghìn tay vẫy
tôi đã nhìn em là chân kinh
xuống tóc. Theo em khép cửa đời
vào thiền chỉ để thấy viền môi
yêu nhau ai bảo tâm không trụ
quên hết. Nhìn nhau. Nhất quán rồi
vì em tôi biến thành sơn tự
mái đỏ tường rêu Hoa hổ ngươi
tình tôi là thảm xin em bước
rất khẽ mà nghe đất nhớ trời
nước mắt em trên chánh điện tình
nở hoa siêu độ hóa tâm kinh
đêm đêm tôi thấy bàn tay cũ
và thấy trong kinh một bóng người
vì em tôi đã làm Sa Di
chân đi nhưng ý vẫn quay về
bế quan tọa thị. Tôi và vách
em tụng kinh gì? -Cho tôi nghe đi
hôn em: Bồ Tát. Chuông kinh hãi
rung hoảng vì tôi? Hay cả hai?
8-88
Đó là bài Vì Em Tôi Đã Làm Sa Di. Khi xuất bản tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, vào cuối năm 1989, tôi có cho in lại bài này.
Ba năm sau, một buổi tối, trong căn nhà kho, biến thành phòng vãng lai và, cũng là phòng hút thuốc lá ở ngôi nhà của TDĐ, Hoàng Thanh Tâm, từ Sydney qua, ghé lại thăm tôi. Tâm hỏi mượn Đ. cây guitar, rồi cất tiếng hát: Thiền viện tôi trưng chỉ ảnh em / kinh kệ nghìn pho có một tên / viết hoa một chữ không ai hiểu / Phật bảo kinh mà không phải kinh / ...
Tôi nghe điếng lặng. Cùng tiếng hát của Tâm, trong tôi, đâu đó, một xó góc nào của trái tim đã muốn tàn phai nắng gió của mình, dường lại vần vũ, đục mờ những cơn mưa, cũ. Chia tay Hoàng Thanh Tâm, ngồi lại với Đ., tôi nói với Đ. về mối ám ảnh nơi tôi, từ thơ ấu, những cơn mưa. Tôi biết Đ. ngỡ ngàng. Tôi biết, (như Dụng mới đây,) Đ. không chờ đợi nơi tôi cái tâm sự bất ngờ và lạc đề kia. Tôi nghĩ, khi ấy, có thể Đ. đã nhìn tôi bằng đôi mắt nghi hoặc. Đôi mắt nhọn hoắt câu hỏi, phải chăng tôi điên? Phải chăng, tôi đang hiện nguyên hình, kẻ khác? Có thể.
Không ai điên tới mức chờ đợi người điên ý thức được những cơn điên của họ! Riêng tôi, tôi biết rất rõ, trong tôi, cơn mưa nào, đã trở gót. Cơn mưa kia, tôi gặp lại một thêm, nửa năm sau.
Từ Houston trở về, tôi nhận được đĩa nhạc Tay Ngọc của Hoàng Thanh Tâm. Nghe lại bài thơ cũ trong nét nhạc của Tâm, dưới nhan đề mới, Hạnh Phúc Buồn, được thâu âm bởi chính giọng Tâm; cũng trong căn phòng vãng lai của Đức, nửa đêm, một mình, tôi nhìn thấy tôi... mưa. Nửa đêm, một mình, tôi nhìn thấy tôi... cũ.
Nửa đêm, một mình, tôi thấy tôi thèm khát tới nôn nao điện thoại cho Tâm, chỉ để hỏi Tâm, tại sao Hạnh Phúc Buồn? Tại sao không là Hạnh Phúc Vui? Hạnh Phúc Nâu hay, Hạnh Phúc Xanh, nếu thích mầu sắc? Tại sao? tại sao? Hựu. Hựu. Hựu.
Nửa đêm, một mình, tôi nghe tôi dặn dò tôi, ngày mai, ra Trung tâm băng nhạc Giáng Ngọc, hỏi xin Lê Bá Chư CD Tay Ngọc. Có rồi, tôi sẽ gửi cho Hựu. Tôi sẽ kể Hựu nghe với tất cả lòng kính trọng (điều duy nhất tôi còn có thể nói được với Hựu) rằng: Khi cơn mưa đi qua, khi trận bão Tháng Hai đã rút về bên kia một bờ biển, khi Tháng Ba đã là những Tháng Ba bên cạnh cuộc đời ta, tôi học được bài học mới. Bài học dậy tôi hiểu: Không chỉ mỗi con người, mỗi cuộc tình hoặc mỗi tác phẩm..., mới luôn có cho riêng nó một định mệnh. Mà, kỷ niệm, phải rồi, mỗi kỷ niệm cũng luôn có cho riêng nó, một định mệnh, như mỗi chúng ta, hôm qua và, mãi mãi, vậy. Tôi cũng sẽ nhắc nhở Hựu, đừng bận tâm về tĩnh tự buồn mà Hoàng Thanh Tâm đã gắn thêm cho hai chữ hạnh phúc. Đó là cái nhìn của những người trẻ. Chúng ta không còn trẻ nữa. Chúng ta hiểu hạnh phúc là một bên kia của đồng tiền khổ đau... Nên, hạnh phúc / khổ đau, cũng chỉ là cách nói.
Như mỗi điều thi sĩ có một cách nói riêng (trước khi trở thành chung) của họ. Và, những bài thơ mang tính tượng trưng của tôi, nếu có thần thánh hóa nhân vật của mình, âu cũng chỉ là một cách nói. Như một mẫu tự nào đó, ta từng viết hoa, mà, chính ta là người trước nhất, không hiểu.
(3-96)
biển, gương, seattle
gửi tđđ việt, ngk.long v.thành và lv.ngự
Mấy ngày vừa qua, tôi có nhiều điện thoại từ Seattle. Điện thoại của Võ Thành Đông, hỏi về bước đi của cuốn thơ mới. Đông sốt ruột muốn nhìn thấy cụ thể công trình designed công phu và mỹ thuật của chàng. Tôi nói, sách đang in. Hy vọng xong sớm. Sự thực, bìa sách vẫn còn nằm lẫn đâu đó trong những phòng làm việc của Lê Ngọc Ngoạn. Ruột một phần còn nằm trong hard disc của Ngô Tịnh Yên. Tôi không muốn nói với Đông, với Seattle, về định mệnh kém phần may mắn của cuốn sách này.
Tôi biết Seatlle từ những năm, tháng tỵ nạn đầu tiên. Thời đó, cùng với Thục Ngạn, Việt Dzũng, Phạm Kim, Cao Đông Khánh, Đoàn Vững..., mỗi chúng tôi chất trong lồng ngực mình những khối thuốc nổ hăm hở, những ngọn đuốc tự tin, băng băng tiến về phía trước. Thời đó, có Phạm Kim, (nguyên sĩ quan CTCT biệt phái về bộ Tư lệnh Hải quân, để làm báo và phóng viên chiến trường...) mới trở lại sân chơi văn chương, Nhân Chứng, với những bài thơ năm chữ chắt, lọc. Thời của những ngọn lửa nồng nhiệt thắp lung linh từng con chữ trong Thư Gửi anh Hai Thủy Bộ, ký tên Phạm Kim, cũng trên diễn đàn Nhân Chứng.
Ngày đó, Seattle chưa có Đông. Tuần báo Phương Đông cũng vậy. Ngày đó, cũng chưa có Người Việt Tây Bắc. Phạm Kim còn ở gần xưởng đóng tầu Tacoma. Đó là những ngày cuối cùng của năm 1980. Thời điểm huy hoàng của Đất Mới.
Thời đó, tôi muốn gọi, thời lãng mạn đầu đời tị nạn. Thời đó, tôi muốn gọi, thời tuổi trẻ hồi sinh. Chỉ bằng vào những thôi thúc vô căn cớ, Phạm Kim thức đêm, đội bão, lội tuyết hoàn tất tờ chương trình. Kim cực nhọc in từng tấm flyer, gửi đồng bào, gửi ruột thịt Việt Nam khắp vùng Tây Bắc, để hôm sau, lần đầu, những trái tim Việt tha hương, những tâm hồn Việt tản mác, gặp nhau mừng tủi trên thềm Thánh Đường Công Giáo số 925 đường South King street. Họ nghe chúng tôi nói chuyện đất nước, chuyện văn chương. Những tấm lòng Việt chia sẻ với chúng tôi, khát vọng tìm đường trở về tổ quốc. Trái tim tỵ nạn khi ấy, chưa thấy ở Santa Ana. Trái tim Việt lưu vong, chảy máu, ở quê người, khi ấy, ở vùng Tây Bắc. Ở Seattle. Ở những hy sinh, đóng góp âm thầm của vợ chồng Kim, của các cháu nhỏ dồn cục trong một căn phòng hẹp, lầu hai, một chung cư bình dân ở Tacoma. Các cháu phải nhường chỗ ngủ cho chúng tôi, những người xa lạ, đến từ nhiều chân trời khác nhau, suốt một tuần lễ. Chúng phải tự lo lấy bữa ăn, để bố mẹ rảnh tay, tìm, gọi những Việt Nam thất lạc, gặp nhau. Hơn 250 Việt lưu lạc, ngày đó, đã lấp đầy 250 ghế ngồi trong Thánh đường mượn vội... Cùng với Phạm Kim, chúng tôi đi tới bất cứ một nơi chốn nào có đồng bào, có người Việt. Chỉ bằng vào niềm tin (không căn cớ,)/ những rung động (ngây thơ,)/ những khát khao (trẻ dại,) chúng tôi làm thơ/ viết văn/ soạn nhạc/ làm báo. Chúng tôi mang thơ, văn / âm nhạc / báo chí / tâm hồn trẻ thơ hồi sinh lên đỉnh đèo xao xuyến, xuống đáy dốc đam mê. Thời đó, chúng tôi mang tiếng hát, lời thơ, tiếng đàn qua sa mạc.
Chúng tôi ca hát. Chúng tôi kêu gọi, réo đòi một Việt Nam khác. Một Việt Nam tự do. Một Việt Nam hạnh phúc. Và, Seatlle, một trong những địa điểm dừng chân của chúng tôi. Và, Seattle, đã mở ra, như một biển gương tình thân, một biển gương chia xẻ, một biển gương trí tuệ Việt Nam quê người, lớn.
Nhưng mơ mộng nào, rồi cũng qua đi. Nhưng ngọn đuốc tuổi trẻ (có lại,) cháy rát một lồng ngực, thiêu phỏng một trái tim, rồi cũng tàn, lụn. Cùng tôi một thời, những người làm thành chút mặt trời trong nước lạnh, nói theo thơ của Paul Éluard, lần lượt ra đi.
Đoàn Vững, với tiếng sáo của một thứ Cao Tiệm Ly thời đại mới, theo tôi, (dù không tự chọc cho mù đôi mắt mình, không mang một mối thù phải trả, không phải bước qua một bờ sông Dịch Thủy nào;) một đêm bẻ sáo, chẻ tiêu, cắp sách trở lại sân trường tìm phương sinh sống.
Cao Đông Khánh, một lúc đóng cả hai vai: Hắc / Bạch Công Tử, một thứ tay chơi hảo hớn, đầy chất “Nam kỳ lục tỉnh”, cũng mang cơn say ngật ngưỡng bất kể ngày đêm, về Texas. Việt Dzũng, người nhạc sĩ trẻ tuổi, rất trẻ khi viết những bài ca đấu tranh đầu tiên, cũng trở lại Houston, giúp bạn, làm nhà in... Tôi chỉ còn Thục Ngạn, dù cũng không được bao lâu.
Thục chọn đi con đường khác. Con đường khuất lánh đám đông. Con đường lìa cắt tập thể. Như thế, Thục đã ra khỏi được đời tôi. Thục đứt lìa tập thể, cũng đã trên dưới mười ba, mười bốn năm. Chọn lựa của Thục Ngạn là một chọn lựa, mỗi khi nghĩ lại, tôi còn bàng hoàng, ngậm ngùi và, trân trọng.
Tôi có trở lại Seattle đôi lần, khi thời lãng mạn của chúng tôi, như đám bọt nước, những cụm bèo, rong, tan, chết hút giữa biển đời trùng điệp. Một đôi lần trở lại, quá đỗi âm, âm...
Phải tới ngày Võ Thạnh Đông chính thức chọn Seattle làm nơi dừng chân. Kể từ ngày báo Phương Đông, ra đời. Thôi nôi. Lên hai. Lên ba..., tôi mới có dịp trở lại, cùng bằng hữu, soi chiếc bóng mình nhiều lần trong biển gương, vĩnh viễn, biếc; trên đèo dốc đời đời, xanh gió ấy. Đông là chiếc cầu / cửa biển/, cho trở lại tôi, xưa.
Những trở lại Seattle gần đây, những đêm nằm trên chiếc giường đôi của Lynn, tôi nghe được tiếng gió chạy từ đáy thung lũng bên hông nhà ngôi nhà cũ của Lang / Đông, ngược dốc, thốc lên miệng đồi. Những đêm mất ngủ, nghe gió cào miết hai cánh cửa sổ, tựa quá khứ oan khiên/hạnh phúc cay nghiệt/nào, vừa trở lui, quành bước. Tôi có cái khát thèm từng hồi, lửa ngọn, gặp lại Th.
Tôi biết gia đình Th., là một trong những gia đình tị nạn đầu tiên chọn định cư tại thành phố này. Họ chọn Seattle từ những ngày còn ở đảo Guam. Khi tin tức cho hay, Thống đốc tiểu bang Washington sẽ dành nhiều quyền lợi, ưu tiên cho những gia đình Việt nào chịu về Washington lập nghiệp.
Tôi biết, quyết định rời bỏ Guam một cách bất ngờ, vội vã của bác Long, cũng chỉ vì chuyện tình giữa tôi và Th., sớm thành xì căng đan. Tôi không biết phải nói gì, trình bày cách sao, cho gần sát sự thật nhất. Tôi muốn nhận về phần mình, mọi tội lỗi bằng tất cả tấm lòng biết ơn, chân thật, và ngay tình tối đa có được.
Đã hơn hai mươi năm trôi qua! Th., đã có gia đình. Bác Long trai đã qua đời. Thiện, chị ruột của Th., cuối cùng, cũng đã chồng, con tốt đẹp; và, tôi cũng trải qua nhiều tình huống tai tiếng, vùi dập... Trong mỗi trở về, ăn ở với Seattle, gần đây, tôi vẫn nhớ, buổi trưa, trên chiếc ghế bố kê sát cửa chiếc lều vải, trông xéo vào chiếc lều của gia đình bác Long, tôi vẫn nhớ, chị Quy ngừng tay thoa lớp thuốc nhờn lên con mắt bị bầm tím. Con mắt không mở ra được bởi va đập vào cạnh tầu lúc chị trượt chân, rớt xuống gần cửa biển Rừng Sát đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4, 75.
Trong dáng ngồi in, khắc vào biển cát rang cháy sau những giờ khắc im gió của chị Quy, tôi đọc được nơi chị, điều gì, giống như niềm băn khoăn/ nhấp nhô / thấp thỏm... Tôi đoán, ở chị, dường có điều muốn nói. Chị ngập ngừng với câu hỏi khác. Câu hỏi, tôi tin, tựa viên đá thăm dò ném xuống mặt nước ứ đọng. Phá không đi xếp hàng ăn trưa sao em?
Lần thứ hai, chị Quy hỏi tôi, câu hỏi ấy. Cả hai lần, tôi chỉ có một câu trả lời không đổi khác, dạ, không. Em chưa thấy đói. Tuồng tôi đã hờn dỗi trút mọi rã rời tuyệt vọng có trong tâm hồn, thân xác tôi vào câu trả lời kia. Cả hai lần, trả lời xong, tôi đều tiếc, không lợi dụng cơ hội kia để nói với chị, những uẩn tình.
Tôi biết, bác Long gái đã nhiều lần tìm chị Quy. Tôi cũng biết, trong những lần hai người đàn bà trò chuyện thầm thì, chẳng lần nào họ quên đề cập tới chuyện tôi và Th. Cách khác, tôi là nguyên nhân đề tài câu chuyện. Nhiều buổi tối, đưa Th., từ bờ đê trở về lều, tôi bắt gặp bác Long chặn Th., ngoài cửa lều, nói gì đó...
Từ ngày lên đảo, mối liên hệ giữa tôi và Th., bị Thiện bắt gặp nhiều lần. Ông bà Long đã không cho Th., ra khỏi lều một mình. Thậm chí, Th., cũng không được phép đi dạo mỗi buổi chiều, nếu không có chị Thiện đi cùng.
Cấm đoán, ngăn ngừa gia tăng bao nhiêu, Th. càng quyết liệt bấy nhiêu. Th., phản ứng lại bằng cách bỏ ăn. Th., phản ứng lại bằng cách dùng thư để liên lạc với tôi, qua trung gian người cậu. Buổi tối, chờ mọi người ngủ hết, Th., lẻn ra khỏi lều. Ra dấu cho nhau, chúng tôi chạy về bờ đê. Con đê lớn, dài, làm thành một vòng bán nguyệt vây bọc phần đảo tiếp giáp biển. Những đêm trốn đi được với nhau như thế, Th. không chịu về, dù tôi nhắc nhở. Nằm với nhau dưới những vì sao vùng nhiệt đới, cùng một mùa hè tới sớm, Th., nói cho tôi nghe dự tính trốn gia đình, ở lại đảo. Th., nói về cái mà Th. gọi là première d’amour của nàng. Th., nói về dự tính tương lai, với vốn tiếng Pháp có sẵn, nhờ theo học chương trình Pháp từ nhỏ, chuyển qua tiếng Anh có phần dễ dàng, Th., dự tính qua Mỹ, sẽ xin theo học ngành nurse ngay. Th. sẽ có việc tốt. Phần tôi, kiếm một việc làm bậy bạ gì đó. Chúng ta làm chủ lấy cuộc đời mình, đâu cần phải có ai nhìn nhận, Th. bảo. Th., cuồng nhiệt vẽ một viễn ảnh tự do, phơi phơi. Th., say sưa nhấm nháp cái tương lai ngây ngất, tuồng đã nằm gọn trong tay nàng. Chỉ một điều Th. quên, Th., mới mười lăm. Những ba năm nữa, Th, mới tới tuổi trưởng thành. Chỉ một điều Th. quên, dù cậu Thuận có thương nàng bao nhiêu, dù anh Q. tôi, có chiều tôi cách mấy, họ cũng không dám chứa chấp Th., một khi gia đình nàng lên chuyến bay về trại Fort Chaffee. Chưa kể phần tôi! Tôi không thể chắc chắn điều gì, dù rất biết ơn Th. Nhờ có Th., tôi thôi, không nghĩ đến chuyện tự tử. Nhờ có Th., tôi vượt qua được những giây phút thình lình đứt lìa mẹ tôi, đứt lìa Bậu, đứt lìa Chuột và Bím. Đành rằng với quốc tịch Pháp, Bậu có thể đem hai con ra khỏi nước. Nhưng còn Hạnh? Chẳng phải tôi mới chia tay Hạnh trên lầu hai chung cư TĐ, sau khi Hạnh pha cho tôi và HT.An, ly cà phê giữa trưa, 29?
Chẳng phải Hạnh tiễn tôi ra về, còn nhìn theo, không một chút nghi hoặc, dự phòng một chia tay, bặt, bặt. Hạnh đã không thể nghĩ, chỉ một, hai ngày thôi, chúng tôi đã xa cách nhau, nửa quả địa cầu? Chẳng phải, gần một năm rồi, tôi không có chút tin tức nào của Thục, sau khi nàng quyết định bỏ gia đình về Vũng Tầu ở với anh chị Tiến?
Vũng Tầu, những ngày cuối tháng Tư! Vũng Tầu, nơi giam lỏng, địa điểm cách ly những người lính điên loạn trên tầu, trong hải trình tháo chạy từ miền Trung về Sài Gòn? Thục thế nào giữa một thành phố panic cùng tột kia? Hạnh thế nào, khi Sài Gòn đổi chủ? Chẳng phải Hạnh chân đất, nát nhầu sống / chết trên liên tỉnh lộ 7B, chạy bộ từ Pleiku về Sài Gòn, chỉ vì tôi thôi sao? Chẳng phải tôi và Vũ Đức Thanh muốn chảy nước mắt khi thấy Hạnh xuất hiện ở 2 Bis Hồng Thập Tư? Không. Tôi không thể chắc chắn điều gì...
Những lần trở lại Seattle gần đây, nơi căn nhà mới của Lang-Đông, những đêm mất ngủ, tôi nghe được tiếng lá cây băng băng, hú chạy trên một mặt đường giá buốt. Tiếng mưa tuyết đập, dội vào những khung kính chạy hết chiều ngang ngôi nhà, nghe như tiếng cào cửa miết, miết của một niềm tuyệt vọng cũ, xưa nào, thức dậy. Tôi lại nghe ruột gan mình thốc tháo nỗi thèm khát được gặp Th. Tôi muốn gặp lại Th., sau hơn hai mươi năm. Một Th., đã thiếu phụ, đã xồ xề. Th. bây giờ, không phải Th. mười lăm, với chemise trắng tay bồng, skirt xanh nước biển, trường Tây, tôi thấy lần thứ nhất nơi góc đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ nữa. Nhưng tôi rất muốn được gặp lại nàng. Tôi muốn gặp lại không phải để nói lời xin lỗi, về chiếc vòng ngọc, bảo vật gia truyền, từ đời bà cố, qua bà ngoại, rồi tới mẹ nàng... Trước khi di tản, mẹ nàng đã chia cho nàng, như phần gia tài quý báu nhất. Chiếc vòng ngọc Th. nhờ ông cậu chuyển giao tận tay tôi, buổi tối, trước khi nàng lên máy bay, rời Guam, về Fort Chaffee.
Chiếc vòng, tín vật tình yêu hai đứa, tôi đã làm mất, ngay những ngày đầu tiên, vừa rời khỏi Camp Pendleton. Tôi muốn gọi để nói lời cảm ơn. Tôi muốn cảm ơn Th., muốn tự mình nói ra (không bằng chữ viết) rằng, nếu không có Th., chắc gì giờ này tôi còn sống? Tôi muốn gặp Th., không phải để nói một điều gì, giống như lời xin lỗi, về những đau đớn tơi xé thịt da nàng: những ngày dưới hầm tầu H.Q.1. Những ngày trên đảo Guam... Tôi chỉ muốn điện thoại để bảo Th.: thời gian đã đủ để chúng ta tha thứ cho những người thân quanh ta. Tha thứ cho chính chúng ta, hết thẩy, mọi chuyện.
Mấy ngày vừa qua, tôi có rất nhiều điện thoại từ Seattle. Điện thoại của Ph.Kim, Lê Thu Hương... Kim gọi tôi không dưới ba lần, trong ngày. Khi Kim thông báo bài phỏng vấn dành cho đài VOA, đã được phổ biến trên mặt báo. Khi Kim, bảo mới đăng lại một bài nói chuyện của Bùi Bảo Trúc về thơ tôi, kèm theo bài thơ Biển, Gương, Seattle. Một bài thơ viết về, viết tại thành phố Kim cùng nhiều bằng hữu khác của tôi, đang ở. Kim kể độc giả thích. Nhiều người điện thoại chất vấn Kim sao bây giờ mới đăng tải bài thơ ấy. Tôi bảo đôi khi, bài thơ, in trong sách, cùng với những bài thơ khác, không hề gây một tác động nào nơi người đọc. Nhưng khi nó một mình, đứng như một ngọn cây cô đơn, đứng như doi cát cô độc, thì, người đọc lại thấy được ở nó, một trời đất/ thổ ngơi/ nắng, gió/ nào đó... Khi Kim hỏi tôi bao giờ lên? Khi Kim bảo tôi fax ngay cho Kim bài Tình Sầu Du Tử Lê. Bài thơ tôi viết hồi cuối năm 69. Nhan đề nguyên thủy của bài thơ đơn giản, hai chữ: Tình Sầu. Đầu năm 70, Nhạc sĩ Phạm Duy soạn thành ca khúc. Trước khi đưa cho Nhạc sĩ Ngọc Chánh của Trung tâm Shotguns thâu vào băng nhựa với tiếng hát Thái Thanh, ông bỏ tên tôi vào sau hai chữ Tình Sầu như một thứ tiếp vĩ ngữ của nhan đề chính. Nó trở thành Tình Sầu Du Tử Lê.
Sau khi phổ biến, bản nhạc có tiếng vang tốt, có thể người nhạc sĩ hài lòng sáng kiến mới của mình, ông nói với tôi, ông sẽ làm một loạt nhạc tình mà, tên các nhà thơ sẽ là một phần của nhan đề. Nhận lời, không hề hỏi Kim bắt tôi gửi gấp bài thơ đó làm gì. Tôi nói, sẽ fax cho Kim ngay khi có thể.
Nhận được bài thơ, Kim nhờ Thu Hương điện thoại cho tôi, nhắn rằng, Fax gấp bản nhạc nữa. Lần này, tôi rất muốn hỏi để làm gì? Nhưng người gọi lại không phải là Kim...
Lê Thu Hương, một người cùng quê Hà Nam với tôi. Chính Thu Hương, trong gặp lại mới đây, ở Seattle, nhắc tôi, những ngày cuối cùng của tháng Mười hai, Tám mươi.
Những ngày tháng ngọn lửa thanh niên bồng bột, phừng phừng cháy rát lồng ngực lưu vong của chúng tôi. Ngày đó, Hương là Thủ Quỹ của Hội Văn Hóa Việt Nam vùng Tây Bắc... Hương mang đến cho tôi, những thăm hỏi chân tình... Hương mang đến cho tôi, những quan tâm thật thà, ngay thẳng. Hương cũng mang đến cho tôi, những trang văn xuôi còn ngập ngừng, rụt rè trên ngưỡng cửa văn chương và đời thường. Hư cấu và thực tế. Hương cũng mang lại cho tôi một Phủ Lý mùa mưa, lụt. Những buổi sáng mở mắt, nước ơi là nước. Buổi trưa, chị vú làm những chiếc thuyền giấy, cho tôi ngồi trên bậc thềm cao, thả xuống sân nước sôi ục ục. Những chiếc thuyền giấy trôi dạt quanh quẩn trong chiếc sân, thường ngày, mẹ tôi dùng làm nơi phơi những quả mơ vớt ra từ bể muối. Bà bảo phải phơi cho đến khi chúng mọc một lớp da khác. Lớp da mới, lốm đốm phấn trắng trên nền nâu đỏ sớm nhăn nhúm.
Mỗi năm, bến sông Đáy, nơi tôi ở ngắn ngủi một thời tuổi thơ, dâng nước một lần, như mỗi năm, mẹ tôi có một nhiệm vụ làm ô mai cung cấp cho các đại lý vậy.
Những ngày mưa, lụt là những ngày hạnh phúc, đồng thời, cũng buồn bã nhất của tôi. Suốt tuổi thơ, tôi có một câu hỏi không ai trả lời. Đó là câu hỏi, liệu có một tương quan bí mật nào giữa những ngày mưa bão, và, mẹ tôi?
Những ngày mưa, bão mẹ tôi dường như bẵng quên tôi. Bà bỏ mặc tôi cho chị vú. Bà cũng không buồn la mắng, hay chỉ bảo đám thợ tập trung nơi dẫy nhà dưới. Suốt ngày mẹ tôi ngồi bó gối, nhìn vào vạt sân mịt mù, ùng ục nước. Khi ấy, làm như mẹ tôi quá đỗi bận rộn với cuộc trò chuyện hoặc tranh cãi (bí mật) cùng mưa, lụt...
Sau này, lớn lên, tôi hiểu, tuồng chỉ những ngày mưa bão mới buộc được mẹ tôi ngừng tay. Chỉ những ngày mưa bão kia, mẹ tôi mới sống lại, sống thực, với hình ảnh thầy tôi, quá khứ. Hình ảnh các anh, các chị tôi, những người đã vĩnh viễn đi theo thầy tôi...!
Tôi không nói gì với Hương về quê hương chung của hai đứa. Tôi nghĩ, vô ích thôi. Tôi không tin trong ký ức Hương, có một bến sông Đáy; có một mùa mưa, lụt mỗi năm, một lần, kéo dài cả tháng. Hương còn quá nhỏ. Có thể, Hà Nam, chỉ là quê hương trong chuyện kể, mà, Hương nghe được. Tuy nhiên, cách gì, giữa tôi và Hương, cũng đã mau chóng hình thành một tương quan tốt lành, sâu, lắng, do nơi những chiếc nhau của chúng tôi được chôn chung một mảnh đất? Hay tương quan chữ nghĩa, cuộc chơi. Hương mới bắt đầu, trong lúc tôi đã quá mệt mỏi?
Một lần, Hương hỏi tôi có ý định di chuyển về Seattle? Tôi nói có. Tôi kể, Hạnh tin, về Seattle, vùng biển, gương, nhiều phần đời sống chúng tôi, sẽ tốt hơn. Nhưng nếu mỗi cuộc đời, (ít nhiều) đều có những lỗi lầm tốt tươi (hay thẹo, nám) thì, liệu nên chăng, một lỗi lầm, thắp lại?
trên những vòng gai/ gió
1. Dường những ngày chuẩn bị trở về (hay chính sự chuẩn bị) đã trả Ch. lại cho tôi; cùng lúc mang Layna đi tới một chân trời khác. Một phía nào, không có tôi. Một nơi chốn không có ngay trong tưởng tượng tôi.
Mùa đông. Khi những thùng sách đã nộp hết cho nhà trường, căn phòng tôi ở bỗng rộng thênh, như nó đã tự sinh nở lớn hai, ba lần hơn diện tích cũ. Hai chiếc valise, một túi sách đã nằm yên trong closet. Tôi đã kín đáo ngỏ lời cảm ơn và, chia tay cô Mỹ đen dọn phòng cho tôi mỗi tuần một lần, vào sáng Thứ Hai. Tôi đã trao tận tay cô, bao thư có tờ giấy mười đồng, trích từ tiền học bổng tháng cuối cùng của tôi, lãnh ở phòng tài chính trong căn cứ. Nhưng với Layna, thì, tuyệt nhiên. Tôi cho Layna thấy tôi vẫn nấn nuối nơi chốn này. Tựa phút chót, mọi sự có thể đảo ngược. Tựa nơi những giờ khắc cuối, khi phải quyết định ở lại, để còn sống; trở về, để nhận lãnh cái chết vô lối, tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ chọn sự sống. Đương nhiên.
Tôi hiểu, bất cứ ai, kẻ nào cũng sẽ chọn đường sống, huống chi tôi. Tôi còn tha thiết, còn thèm khát đời sống mạnh mẽ, quyết liệt biết bao! Tất cả ý nghĩa đời sống tôi, nằm nơi dòng tóc, đôi mắt, trái tim trong thân thể ốm o và quá đỗi yếu đuối, thất lạc của người con gái ở quê nhà.
Tôi vẫn cho Layna thấy, vào phút chót, rất có thể tôi sẽ xách valise về nhà nàng.
Tôi không có ý muốn lường gạt Layna. Tôi càng không hề nghĩ ra cái màn kịch khó đóng này. Chẳng qua, đó là ý kiến của mẹ Layna. Bà bảo, nếu tôi phải ra đi, hãy đi. Nếu tôi không thể có chung với gia đình, một cái Christmas Eve, thì, đó là điều bà rất tiếc. Như bà từng tiếc cho Christ, cho mọi người trong gia đình, phải trải qua ba cái Christmas Eve liên tiếp không có Christ...
“Nhưng với Layna, lại khác. Dù hai người chưa có gì với nhau..., như tôi tin, thì chúng ta cũng vẫn nghĩ tới nó. Hãy tội nghiệp nó”, bà nói.
“Đành rằng mọi thứ rồi cũng sẽ qua đi nhẹ nhàng thôi. Không sao hết. Nhưng ít nhất, khi câu chuyện xẩy ra, tôi biết, sức chịu đựng của nó, sẽ ngắn, nhỏ hơn chiều cao và sức nặng của nó, nhiều lần đấy, Phong à.”
Cuối năm. Khi rừng phong đã trút xong những mảnh áo cuối còn xót lại, khi thời tiết đã tự ướp nó trong mầu sắc và âm thanh của mùa Giáng sinh; và Tết đã bước âm chân vào ngưỡng cửa các ngôi nhà, buổi tối, lúc vói tay tắt ngọn đèn trên chiếc end table, nhìn lại thân thể Layna ướt tươm hoan lạc, tôi thấy nước mắt tôi (nước mắt ai?) hoen, ứa. Có điều gì tựa ruột đứt, gan sôi. Có điều gì, tựa niềm quyến luyến / nỗi sợ hãi mất mát/lãng quên/phản bội làm tôi đau thắt ngang lưng.
Bao lần mấp mé trên miệng vực xúc động trước giờ chia ly, tôi suýt buột miệng thú nhận với Layna, đây là lần gặp chót. Bao lần tôi muốn buông xả, muốn tự phóng thích tôi khỏi cố gắng nín giữ cho riêng mình niềm bí mật xóc óc. Tôi biết, xúc động sẽ không để tôi nói hết câu. Chỉ cần mở miệng thôi, lập tức, tôi sẽ òa khóc. Tôi biết, ngợp chìm dưới những cơn sóng xúc động, tôi là đứa trẻ mau nước mắt. Tôi hiểu, tôi mau nước mắt hơn đàn bà nữa. Thì đã sao? Phải rồi, đã sao chứ?
Không ai nghĩ rằng tôi thèm được khóc thỏa thê, luôn cả Layna! Nhưng hình ảnh Christ hiện ra, im, xững. Đôi lúc trong tôi, bồng bột ham muốn được có cùng lúc Layna và, Ch. Trong tôi, đôi lúc, bồng bột câu hỏi: hay ở lại? Ở lại? Ở lại. Ở lại. Tại sao không? Tại sao không?
Tiếng nói thầm thì ẩn nấp đâu đó trong tôi bỗng lớn cao, bỗng khổng lồ, như những thân cổ thụ. Những cây phong trầm trọng, uy nghiêm (khiến tôi phải hết sức cố, rán ngẩng đầu mới trông thấy ngọn,) vây quanh tôi. Chúng cúi xuống, ném tiếng gào thét lên tôi. Tôi thấy tôi nhỏ bé như chiếc lá đã mục, còn bị chân ai lãnh đạm dẫm lên, giữa lúc gió trên cao, toa rập với rừng, tạo thành những cơn động đất, dữ. Ở lại. Ở lại. Tại sao không? Tại sao không? Tôi như mụn tuyết chao đảo, chóng mặt bởi tiếng gió đan qua lại, hú giữa những rặng cây, kết thành chiếc lưới âm vang, khít rịt.
Cảm giác chóng mặt này, ở với tôi, không chỉ lúc tiễn Layna về; mà tới khi leo lên chiếc xe của trường, đến đưa tôi ra bến xe Greyhound, lúc năm giờ sáng. Xe ra khỏi cổng trường, ngoái cổ nhìn lần cuối tên ngôi trường khắc sâu nơi tấm bảng đồng lớn, tôi nói Adieu.
Adieu, tôi không biết mình nói với ngôi trường, với Layna (lúc này đang ngủ say với chương trình đã sắp xếp xong cho buổi chiều mai gặp lại;) hay, tôi nói với những người khổng lồ, những thân phong cổ thụ (mà, nhiều lần tôi phải hết sức cố, rán mới trông thấy ngọn).
2.
Cuối năm. Khi rừng phong đã cởi bỏ được khỏi thân thể chúng, những mảnh vải cuối cùng; khi gió mang những chiếc cọ ô dề, bôi, phết tuyết lên khắp cùng cảnh vật miền Đông và Đông Bắc nước Mỹ, hình ảnh Vương Cung Thánh Đường, của Sai gòn, run rẩy những hàng nến đỏ. Run rẩy trong tôi, những bài hát Giáng sinh, một thời tuổi nhỏ. Run rẩy trong tôi (kẻ ngoại đạo,) tiếng hú âm u của hình dung hang lừa, máng cỏ, chỗ ở đầu tiên của Chúa Hài Đồng. Run rẩy trong tôi, những chiếc lá me, như cốm non bị bàn tay bội bạc bỏ lại trên lề đường Nguyễn Du, Tự Do, Độc Lập... Run rẩy trong hình ảnh anh tôi. Anh Khánh. Anh Khánh với mối tình thủy chung tới đau đầu, dành cho chị Bích.
Bài thánh ca đó còn nhớ không em - Noel năm nào chúng mình có nhau - long lanh sao trời đẹp thêm đôi mắt - áo trắng em bay như cánh thiên thần - giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân - cùng nhau quỳ dưới chân Chúa cao xa - xin cho đôi mình suốt đời có nhau - vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa - khẽ hát theo câu bài thánh ca buồn - ôi, giọng hát em nghe ngọt bùi - rồi mùa giá buốt cũng qua mau - lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu - rồi một chiều áo trắng phai mầu - em qua cầu xác pháo bay sau - lời nguyện cầu mình Chúa có nghe không - sao bây giờ mình hoài xa vắng - bao nhiêu đêm Chúa dưới dương gian - bấy nhiêu lần con nhớ người yêu...
Những ngày tháng ở ngoài đất nước, ngoài tầm đạn bom, (nhất là những năm tháng gần đây,) tôi nghiệm ra, nếu chiến tranh lóc, thẻo hết phần nhân tính khỏi con người, để con người hiện nguyên hình thú đê tiện, nhầy nhụa hơn bất cứ một loại thú vật nào; thì, chiến tranh cũng bị buộc phải xây đền, dựng tượng cho những con người, những mối tình; mà chính chiến tranh là nền, đất, phân bón làm tốt tươi, vạm vỡ những hạt mầm nhân sinh bất tử ấy. Nó cũng tựa những cánh hoa lan mọc từ thân gỗ mục. Cách khác, đó là sự chết làm sống lại những đời-sống-chết. Tôi muốn nói tới sự chết của mối tình anh Khánh và chị Bích. Chẳng phải, vì anh Khánh là anh tôi. Chẳng phải, vì chị Bích bây giờ, không biết dạt, trôi, sống, chết nơi nào.
Nhưng hãy hình dung, thử nhớ lại, chuyện tình của anh Khánh, lúc anh chưa ba mươi, lúc chị Bích vừa đúng mười tám. Chuyện tình như ngọn nến leo lét giữa Saigòn đêm tối/ Saigòn chiến tranh. Chuyện tình khởi đi từ một họp mặt Giáng sinh, để mau chóng trở thành một chọn lựa sinh tử. Chí ít, cũng với chị Bích. Chí ít, cũng với anh Khánh, những đêm Noel quỳ trong Vương Cung Thánh Đường. Những ngày, những đêm, anh chị ra khỏi nhân gian, lánh thoát địa ngục trần thế, trong căn phòng trên building Cửu Long. Những ngày/, những đêm, anh chị nằm với nhau trong tổ ấm bất trắc, treo lửng giữa đạn bom, giữa những đợt pháo kích và, trái đạn B40 không có trái tim, tròng mắt. Thèm khát chiếm đoạt hương trinh trắng từ từng tấc thịt da chị Bích, nơi anh Khánh. Thèm khát tự nguyện hiến dâng đời con gái, chỉ có một lần của mình, cho người yêu, nơi chị Bích...
Đó là những phản ứng tâm lý, tất nhiên; phản ứng sinh lý, thuận thiên, một khi họ đã trân trọng, nâng niu, trút bỏ khỏi thân thể nhau, mảnh áo, lớp quần đạo đức, luân lý trá, ngụy. Một khi, mỗi tấc thịt da người này, đã chính là dưỡng khí/nguồn sống của người kia, mỗi lần cúi xuống. Một khi, thân xác, tự thân, nào phải là điều xấu xa. Một khi, thân xác, tự thân, chính là tặng phẩm của thượng đế. Một khi thân xác, tự nó, đã mặc khoác lấy cho nó, một đời sống, một buồn, vui thành tựu hay tan hoang độc lập.
Thân xác, phẩm vật thứ nhất, mà chúng ta, chính chúng ta phải tỏ lòng tri ân, cất lời xưng tụng. Đó cũng là điều tôi đã viết xuống, khi nghĩ về những người nữ tội nghiệp. Những người nữ bất hạnh, đi thất thểu dọc theo chiều dài lịch sử đất nước, những năm chinh chiến:
ai dám bảo thịt da không biết khóc
nhìn tôi đi, em sẽ hiểu đêm về
3.
Nhưng tôi biết, đã nhiều năm, dễ nhiều chục năm (ngay hiện tại,) nếu chị Bích còn sống nhập nhoạng đâu đó, trên mặt đất này, chị cũng không còn cơ hội nào để nhìn thấy anh Khánh tôi. Anh tôi, ngược lại, cũng không thể nghe được tiếng khóc từ thịt, da chị Bích... Tôi biết, anh Khánh đã tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc, thì giờ nhờ người tìm chị...
Mọi thứ đã chấm dứt với Noel sau cùng. Noel, chị Bích phải đi lấy chồng, miễn cưỡng đi lấy chồng, theo ý anh tôi. Anh Khánh bảo:
“Nếu yêu anh, em phải nghe anh. Em hãy lấy chồng. Em đi lấy chồng chính là em yêu anh vậy.” Tôi nghĩ, nhiều năm, có dễ nhiều chục năm (ngay hiện tại,) nếu chị Bích còn sống nhập nhoạng đâu đó, trên mặt đất này, chị cũng không còn cơ hội để hiểu, khi anh Khánh, nằng nặc, khăng khăng, buộc chị phải đi lấy chồng, anh đã đau đớn biết dường nào. Sự cao thượng của anh tôi, nếu có thể nói được như vậy, chỉ là sự tự lột da/ bạo hành thân xác / tâm hồn / trái tim/của chính mình mà thôi.
Hồi đó, chị Bích còn quá nhỏ (tôi cũng còn quá nhỏ) để được phép gặp chị, để nói với chị rằng, lý do anh Khánh viện dẫn để ép chị chấm dứt đời con gái, tỷ như: anh không biết ngày mai đời anh..., anh không biết đời lính tráng của anh sống, chết lúc nào..., anh không tương lai, sự nghiệp..., chỉ là những viện dẫn yếu ớt. Những nại cớ không vững, nếu không muốn nói là nhảm nhí, cường điệu. Thời gian đó, ở tuổi anh Khánh, nào chỉ một mình anh trong quân đội? Cả nước trong chiến tranh. Tất cả những thanh niên ở tuổi anh, đánh đu từng giờ với cái chết không biết lúc nào! Cả nước không tương lai. Cả nước không sự nghiệp. Nào riêng gì anh?
Lý do thật, lý do thầm kín nhất và, cũng oan nghiệt nhất cho anh Khánh, nằm nơi anh đã có... vợ. Anh không thể bỏ chị Liên. Bỏ người vợ đầy nghĩa tào khang của anh. Chẳng những chị không có lỗi, ngay luật Thiên Chúa cũng không cho phép anh làm việc đó, dù anh rất muốn. Tôi biết, nhiều năm, có dễ nhiều chục năm (ngay hiện tại,) nếu chị Bích còn sống nhập nhoạng đâu đó, trên mặt đất này, chị cũng không còn cơ hội để hiểu, anh Khánh từng lặng lẽ đi theo chị và người bạn trai sau đó trở thành chồng chị, vào tiệm kem ở bên ngoài khu vườn Tao Đàn. Thấy chị nói, cười, thấy chị hớn hở, thấy chị hân hoan, rít rít, anh đã đau đớn, đã rồ dại biết chừng nào. Chị đâu biết, chỉ cần một giây bị sự yếu lòng quật ngã, chỉ cần một nghị lực xuôi tay, anh Khánh đã ra mặt, bước tới, giựt lại chị cho thèm khát, cho tự ái giống đực, cho lẽ sống của đời anh.
Giữa lúc tưởng chừng sắp quỵ ngã, sức mạnh nào đã nâng, giữ anh Khánh lại trong một khoảng cách vừa đủ xa mặt đất. Anh Khánh đã chiến thắng được chính anh. Anh Khánh đã đứng được trên đôi chân cường tráng, tự hào, và, trái tim tan nát của mình.
Nhưng cường tráng kia, niềm tự hào nọ, không ở lâu với anh. Chúng đã phản bội anh, ngay khi chị Bích rời tiệm kem, đi khuất bên người đàn ông xa lạ ấy. Nhưng cường tráng kia, niềm tự hào nọ, không ở lâu với anh. Điều ở lại lâu lắc, vĩnh viễn, mỗi lúc mỗi rỡ ràng, chói gắt hơn cùng với tuổi già chất chồng hơn, cùng với Noel, mỗi năm một lần, rụng, rơi thánh thót xuống trái tim, ký ức Khánh, lại là nỗi oan khiên, niềm cay, nghiệt tầng tầng, khối khối.
Rồi mùa giá buốt cũng qua mau - lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu - rồi một chiều áo trắng phai mầu - em qua cầu xác pháo bay sau - lời nguyện mình Chúa có nghe không - sao bây giờ mình hoài xa vắng - bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian - bấy nhiêu lần con nhớ người yêu...
Nếu Chúa quấn vòng gai hy sinh, để cứu chuộc tội tổ tông cho con cái ngài; thì, anh Khánh tôi, quấn quanh trái tim anh, vòng gai những nốt nhạc, lời hát trong bản nhạc Lời Thánh Ca Buồn, như chứng nhân duy nhất, hiện diện giữa hai người, đêm Giáng Sinh đầu, cuộc tình họ. Anh Khánh quấn vòng gai âm nhạc đi cứu chuộc tình yêu anh.
Tôi không biết hình ảnh chị Bích đi với người đàn ông khác khiến anh Khánh không thể quên chị Bích; hay sự khước nhận tiết trinh mà chị Bích tình nguyện trao cho anh, trong cuộc tình kéo dài tới ba năm, là ngọn lửa, hồi chuông không dứt dọi soi, ngân nga trong tâm hồn anh. Có thể, cả hai. Tôi cảm tưởng, anh Khánh không chỉ quấn quanh trái tim anh một vòng gai âm nhạc. Quanh trái tim anh, còn thêm nhiều vòng gai khác. Vòng gai lửa nhọn. Vòng gai chuông ngân. Vòng gai tuổi trẻ tự hào với những chứng tỏ, vốn đã mọc sẵn trong nó, khá nhiều mầm hối hận, nhầm lẫn.
Phải chăng, quả táo đã ăn là quả táo thối, như thiên đường sẽ biến thành địa ngục, nếu ta bước tới bằng đôi chân của con vật trí tuệ?
4.
Dù cho lý do/ quả táo /thiên đường nào, điều đáng nói, vẫn là sự kiện Anh Khánh đã tự quấn quanh trái tim anh, vòng gai Lời Thánh Ca Buồn, trên tất cả những đoạn đường đời anh đi. Nhưng dù cho lý do/ quả táo/ thiên đường nào, điều đáng nói, vẫn là sự kiện anh Khánh tự quấn quanh trái tim anh vòng gai lửa ngọn/ hồi chuông / tuổi trẻ / chứng tỏ... Anh quấn vòng gai quanh mắt, trở lại vùng Khánh Hội tìm chị Bích. Anh quấn vòng gai quanh hồ, lái xe xuống Vũng Tầu tìm lại lời hẹn đầu của đời anh. Dù anh biết rằng, lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu? Không ai nhớ dài lâu lời hẹn đầu. Đúng thế. Trừ anh Khánh tôi. Đúng thế. Trừ anh Khánh tôi, không ai lái xe từ Vũng Tầu, trở ngược về Saigòn ngay lập tức. Để rồi từ Saigòn, theo lời chỉ mơ hồ của Loan, em chị Bích, anh Khánh tôi tới từng trại lính, ghé đến từng khu gia binh, hỏi từng gốc cây, thăm từng mái nhà...
Anh nuôi hy vọng tìm thấy, nhìn lại, một lần, ngọn lửa, hồi chuông, tuổi trẻ, bài thánh ca buồn: chị Bích, hay vòng gai của chính đời anh. Tôi khâm phục, tôi cảm động biết dường nào mối tình chung thủy kia. Tôi khâm phục, tôi ngưỡng mộ biết dường nào, tấm lòng và, trái tim nằm lệch một phía. Phía thương đau. Phía của những vòng gai kỷ niệm, đằm, đằm mang về huyệt mộ.
Những ngày tháng ở ngoài đất nước, ngoài tầm bom, đạn (nhất là những năm tháng gần đây,) tôi càng nghiệm ra, nếu chiến tranh lóc, thẻo hết phần nhân tính khỏi con người, để con người hiện nguyên hình thú đê tiện, nhầy nhụa hơn bất cứ một con vật nào; thì, chiến tranh cũng bị buộc phải xây đền, dựng tượng cho những mối tình. Những mối tình thánh thiện, giữa tao loạn. Những mối tình nở những bông tươi tốt, vạm vỡ trên vũng lầy thú tính chiến tranh. Nó cũng tựa những cánh hoa lan mọc từ thân gỗ chết. Tôi muốn nói tới cái chết của mối tình anh Khánh và chị Bích. Chẳng phải vì anh Khánh là anh tôi; và, chị Bích bây giờ, không biết dạt, trôi, sống, chết phương nào.
Tôi muốn nói tới mặt lớn lao / dữ dội / của một tình yêu thật. (Tình yêu thật, vốn không có nhiều như chúng ta thường nghĩ, nên cũng chẳng có lắm chia, tan bật máu, như chúng ta hằng tưởng.)
Trong số tình yêu thật, không nhiều kia, có tình yêu của anh Khánh. Tôi muốn kể cho chị Bích nghe, anh Khánh tôi, đã thế nào, ra sao, vào phút tìm ra chị. Vào phút anh tìm ra những vòng gai quấn quanh trái tim của mình. Cái vòng gai âm nhạc / tình yêu / thề bồi/kỷ niệm/ ..., cụ thể qua hình ảnh chị Bích xơ xác, thất lạc ngồi ôm con trước cửa ngôi nhà trong một chung cư ở ngoại ô thành phố Saigòn. Khu chung cư bình dân, dành cho những sĩ quan có đồng lương hạn hẹp. Chị Bích ngồi đó. Những vòng gai tâm tưởng của anh Khánh ngồi đó. Ngồi đó. Ngồi đó. Ngồi đó.
5.
Ngồi đó, một người khác. Không phải chị Bích. Không phải người con gái, mười bảy tuổi, giầy, vớ trắng, skirt đồng phục, trường Tây... Ngồi đó, một người khác. Không phải chị Bích. Không phải người con gái, mười tám, tóc ngậm trên môi, cúi xuống trần gian, vầng trán thơ ngây, đôi mắt thiên thần, lượng máu đam mê, chạy nhầu trên những ngả đường nắng, gió lãng mạn. Ngồi đó, không phải người con gái mười chín, tháp đôi cánh hiến, tặng trăm năm bay ngất, tít vùng tử, sinh hào hển định mệnh. Ngồi đó. Vẫn là chị Bích. Nhưng chị Bích trong lốt tượng đất quắt, khô. Chị Bích trong dáng cây non, sớm già, cành tươi, sớm dập. Ngồi đó, người đàn bà chảy nhão năm, tháng, ung, thối tương lai. Ngồi đó. Chị Bích, trật khấc. Chị Bích với không một vòng gai quấn quanh chị. Ngồi đó: tình yêu tinh khiết của anh Khánh. Ngồi đó, những hạt lệ tủi hờn, những tiếng nấc nghẹn, tắc.
Ngồi đó, người đàn bà (tên Bích), nhìn xuống đứa con. Cất tiếng cật vấn người đàn ông, tại sao, cớ gì, anh đã không thể cho chị một đứa con. Một giọt máu trước khi chị phải chia tay, chị phải chọn lấy cho mình một người đàn ông khác. Một người đàn ông, được gọi là chồng? Ngồi đó, người đàn bà (tên Bích,) mở lớn đôi mắt đẫm lệ, trân trối như đang tranh chấp gay gắt với khoảng không trước mặt. Chị thấy những gì? (Tôi nghĩ, chỉ thượng đế biết.) Chị cảm những gì? (Tôi nghĩ, chỉ thượng đế hay.) Chỉ thượng đế biết, tại sao anh Khánh tôi, đã lặng lẽ quay lui. Chỉ thượng đế biết, tại sao anh Khánh đã im, lặng, đã nín, câm tới ngày đặt chân nơi trại tỵ nạn. Tháng Bảy. Thung lũng Pendleton. Tháng Bảy của những cành cây sồi gẫy. Tháng Bảy của những đêm mưa. Bảy Lăm. Tháng Bảy, sương muối vội vã thắt cổ mùa hè, để ngày, đêm là ngày, đêm giá buốt. Tháng Bảy, đường giây tìm người của Hồng Thập Tự, điện đi khắp nơi, dò dẵm, lục lạo tin tức liên quan tới một người đàn bà tên Bích. Tháng Chín, Hồng Thập Tự mang lại cho anh Khánh tôi, một người đàn bà tên Bích, Camp Pendleton, Trại Một. Nhưng người đàn bà tên Bích ở Trại Một, không phải là người đàn bà tên Bích chảy nhão năm tháng, ung, thối tương lai trên bậc cửa ngôi nhà một chung cư, ngoại ô Saigòn, trước tháng 4-75. Người đàn bà tên Bích kia. Càng không phải là Bích, của anh Khánh tôi, của Lời Thánh Ca Buồn. Giáng Sinh. Khách sạn Cửu Long. Vương Cung Thánh Đường, Saigòn 1962...
Tôi không nghĩ, như nhà văn nào đó, cho rằng định mệnh thường tinh nghịch đem những trớ trêu cợt nhã lên số phận con người. Tôi cũng không nghĩ, định mệnh ác độc, định mệnh đành hanh không cho anh Khánh được gặp chị Bích, giữa khi anh quyết định bỏ vợ, nếu nó chịu trao Bích lại cho anh. Tôi nghĩ, định mệnh muốn trả thù. Định mệnh trả mối thù anh Khánh quay lưng. Định mệnh trả mối thù, giữa chiến tranh, giữa cầm thú, anh Khánh chọn tách lìa, chọn đi, về phía thánh thiện /trong sáng /tinh khiết với những vòng gai... Dù cho cuối chót, anh đã chẳng cứu chuộc được ngay chính tâm hồn anh. Điều đáng kể, là thái độ, chọn lựa. Anh đã chọn lựa đặt trái tim anh, nghiêng lệch hẳn, một phía. Phía của bóng đêm. Phía của hầm mộ, cuối đời, khôn tắt. Tôi biết tôi không thể (có muốn cũng chẳng thể,) được như anh. Tôi biết, điều duy nhất tôi có thể làm được (một cách khôi hài, lố bịch,) là kể chuyện anh Khánh cho chị Bích nghe, một ngày nào. Một ngày nào, không có trong niên lịch, trong thập kỷ sắp tới đây.
Tôi biết, tường tận (rất tường tận,) rằng, những ngày cuối năm đang đi qua. Bước chân Nguyên Đán sắp tới. Những bài ca Giáng sinh sẽ được thay đổi âm giai, cung bậc. Như những cây phong sẽ lại tự mặc khoác cho chúng những chiếc áo khác. Chỉ riêng gió, phải, rồi. Nó, những trận gió của Tâm, Hà, Tú, Hùng ở Illinoise; những trận gió của Mỹ, Nhơn, Long, Anh, Dzĩnh, Triều, Oan..., ở Minnesota, ở Michigan) là vẫn còn mãi thổi mãi.
Chỉ riêng gió. Đúng thế. Nó (chứ còn ai vào đấy nữa,) là còn thổi mãi trên một Illinoise của Phương âm u, khép kín. Còn thổi mãi trên xa lộ 90 hay 94 East dẫn về Indiana của Layna, giờ đang góa phụ? Còn thổi mãi, trên một Thông Tây Hội của Ch. thủy tinh xanh xao; một Trương Minh Giảng của Tý Ngọ còm cõi đam mê; một An Cựu, Chợ Mai của Hạnh và J., phơi khô tiếng cười, nẻ, nứt trên ngọn cây thiếu nữ...
Chỉ riêng gió. Đúng thế. Nó (chứ còn ai vào đấy nữa,) là còn thổi mãi trên những thước đường rêu, khói, Houston/trên những tầu ngựa, luống cúc, Austin/ trên những vồng non Tulip, Dallas/trên thịt xương tượng hình trong Hón (những ngày thơm ngón tay, bột phấn bánh tiêu,) New Orleans. Còn thổi mãi, xa lộ Năm, ngã ba đường King, trưa ngó xuống những giọt máu Santa Ana, đã bỏ, lạc (của Lãnh).
Chỉ riêng gió. Đúng thế. Nó (chứ còn ai vào đấy nữa,) là còn thổi mãi chiếc lá rơi im, sâu trong cặp kính cận thị nhiều độ của K.C., những ngày đầu tiên bỏ Paris về Silver Spring. Còn thổi mãi trên những / vai rừng / mùa đông /Virginia/cháy đỏ. Còn thổi mãi, trên những vực, dốc Springfield, thấp thoáng đâu đó cát bụi Hy Mã Lạp Sơn, trên da thịt đìu hiu Tân Đề Li (của C. nhỏ.) Còn thổi mãi, ở Oregon (của An, Phố, Vinh, Phụng;) ở Tacoma (của Ngự, Thành,) ở Seattle (của Hương, Long, Đông, Kim, Lai,) ở Long Beach (của Thông Híp,) ở Úc châu. Ở Âu châu. Ở Việt Nam. Ở những vòng gai quấn quanh trái tim anh Khánh... và, ở, ở, ở...
6.
Tôi biết, tường tận (rất tường tận,) rằng, những ngày cuối năm đã đi qua. Bước chân Nguyên Đán đã tới. Cánh tay thời tiết vẫn dịu dàng trút bỏ rồi tròng cho kỷ niệm của chúng ta, lớp áo, và, những mùi hương, mới. Nhưng, tôi cũng biết (một cách tường tận, hẳn nhiên,) chẳng có một kích thước, một kiểu, mẫu vải vóc, một mùi hương thầm kín nào ứng, hợp với thân thể ký ức, thịt da cuộc tình của anh Khánh tôi... Ngay chị Bích, nếu còn sống đâu đó, trên mặt địa cầu này, cũng chẳng thể có một mẫu, mã nào thích hợp với chị, sau cái mẫu, mã thứ nhất, chị nhận được từ anh Khánh.
Thượng đế chỉ có một khuôn mẫu duy nhất để tạo nên con. Nhưng phần bên trong lại là những khác, biệt đau, đớn.
Và, tôi nghĩ, chỉ có gió. Đúng thế. Nó (chứ còn ai vào đấy nữa,) là hiểu được sự khác, biệt đau, đớn ấy.
1-97
minnesota /
một nơi chốn cho linh hồn
mạn tôi/ trở về
gửi Thầy tôi, Thầy NVX.
Cuối cùng, chiếc phi cơ cất cánh từ phi trường Los Angeles vào lúc một giờ khuya phải đục ngầu mây, chúi mũi, lao xuống, sau khi đã chao cánh nhiều lần. Cô Tiếp viên trưởng không ngừng lập lại lời yêu cầu hành khách giữ nịt giây an toàn cho tới khi phi cơ vào được bến đậu.
Cùng với ruột gan nhào, xóc, những mũi kim li ti châm chích buốt, nhức sâu màng tai, tôi nhìn thấy phi trường Song Thành như khuôn mặt còn ngái ngủ của một thôn nữ, bị giựt khỏi giấc mơ êm đềm, ném vào giữa cơn mưa lớn. Những giải lụa mưa dầy loang loáng những mũi kim đan xít trên nền xám khu Arrival. Mấy tòa building xếp theo hình chữ chi, trông xa như những con rùa khổng lồ không đầu, đang cố gắng ngoi lên khỏi mặt biển.
Phi cơ càng xuống thấp, mưa càng cộm, và, mọng hạt hơn. Độ lạnh trong thân tầu gia tăng đột ngột. Cảm giác hơi nước thình lình tráng từng lớp đá mỏng khắp cùng cơ thể. Những người khách còn quyến luyến giấc ngủ gập ghềnh bị sức nâng, giằng của phi cơ tưng lên, như muốn bật khỏi ghế ngồi, lúc bánh xe cuối thân tầu tạt nước qua hai bên để kiếm tìm mặt phi đạo.
Hình ảnh dữ dội đập vào mắt tôi trước nhất là những chiếc C-130 của quân đội, ngụy trang mầu lá cây, thấp tè, xếp hàng ngay ngắn, thụt sâu bên cánh phải. Có dễ tôi sẽ không tin nơi mắt mình, nếu Hạnh không cất tiếng: C-130, anh ơi.
Hơn hai mươi năm, ám ảnh về chiến tranh, những ngày, tháng lẩn trốn thần chết tinh quái, xục xạo trong những trận đánh còn tiếp diễn, đã lạt phai dần trong tôi, sống lại. Hình ảnh những chiếc máy bay quân sự ở phi trường Tân Sơn Nhất sớm mai bị nhúng sâu trong biển sương muối, cúi mặt dò dẫm bò ra phi đạo (bỏ lại phía sau những đốm lửa leo lét là những gánh cà phê, quà sáng:) ngốn những người lính Nhẩy Dù, TQLC để rồi sẽ lè, nhả họ cho các mặt trận ở Vùng Một, Vùng Hai..., đã lùi xa, đã khuất, lấp, bỗng không sống lại.
Căn bản, hồi tưởng buồn bã nào cũng như những cánh tay tuyệt vọng khua trên mặt sóng của một người sắp chết đuối. Những cánh tay tựa những cột buồm đuối, rã.
Hình ảnh những chiếc máy bay quân sự lôi C-130 hay C-123 chở thân nhân, những người lính đi phép nằm ngồi bên cạnh những chiếc quan tài bọc thép dầy mà, nước vàng vẫn rỉ, thấm xuống những vỉ sắt trong lòng tầu. Mùi xác rữa làm những người không quen phải nôn, mửa.
Những sớm mai sương muối tựa cháo loãng rẩy khắp ngọn đồi Cao nguyên. Những sớm mai mưa dầm cả tuần không dứt. Mưa như bùn non vấy nhem nhuốc những ngón cây sầu đông dọc lộ trình dẫn ra phi trường ở Huế. Tôi không hiểu tại sao các chuyến bay C-123 hoặc C-130 lại ưa chọn những sớm mai tro, lợ như vậy để cất cánh. Chỉ biết, những chiếc C-130 xếp cánh dọc một bên phi đạo Song Thành, sớm nay, đã mồi lại trong tôi (và Hạnh?) ngọn lửa biệt ly của những ngày tháng chiến tranh, cũ. Chỉ biết, hồi tưởng như cánh tay tuyệt vọng khua trên mặt sóng của một người sắp chết đuối. Những cánh tay tựa những cột buồm đuối, rã.
Cuối cùng, rồi chiếc phi cơ cũng vào được bến đậu của phi trường Song Thành. Phi trường nằm giữa hai thành phố Saint Paul / Minneapolis, trong chạm mặt lần thứ nhất, sau hai mươi mốt năm chờ đợi. Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Phương Triều, “Điêu huyền,”... đâu biết, Minnesota không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức; mà, Minnesota còn mang lại cả mùi thuốc súng / chiến tranh / tuổi trẻ tôi/nữa.
Đó là những ngày tháng đầu thập niên bảy mươi. Thời gian này, nhờ phụ trách bài vở của tờ Tiền Phong, tôi không còn nằm trong danh sách Phóng viên chiến trường của quân đội. Tuy nhiên, vào những thời điểm có quá nhiều trận chiến bộc phát cùng lúc, các phóng viên bị gửi đi hết, phòng Báo Chí không còn ai, tôi vẫn bị gửi đi làm phóng sự.
Thời gian này, với tôi, khoảng cách Saigòn-Huế; Saigòn-Pleiku trở thành gần cận, tựa hai đầu một khúc đường ngắn. Những sớm mai, trời đất còn tro, lợ, có thể Ti còn dò chuẩn bị cho kỳ thi về môn Vi trùng học; có thể Tí Ngọ chỉ mới chợp mắt, chưa kịp gặp một giấc mơ nào..., tôi đã có mặt trong khu gia binh Tân Sơn Nhất. Cùng những người lính Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, tôi lội bì bõm giữa bóng tối nhập nhoạng, giữa những ngọn đèo bão, hay khí đá, tìm ly cà phê đầu ngày, ngốn ổ bánh mì trong lúc chiếc C-130 ầm ầm hâm máy.
Chúng tôi đi lại, đứng ngồi, như những bóng ma chờ được gọi đầu thai giữa phiên chợ âm phủ. Những người lính đa số còn rất trẻ, chỉ trạc tuổi tôi, bình thản đợi giờ ném vào vùng súng đạn. Cái bình thản do thói quen, thành quán tính? Không một ai trong họ, thắc mắc ngày về có đủ mặt?
Những sớm mai chưa tỏ mặt người, ở Huế, có thể Hạnh còn đang chìm, ngất trong những giấc mộng xuân thì, khát khao vòng ôm đầu đời thiếu nữ; thì tôi đã ngồi trên sàn sắt của một chiếc C-123 hay C-130 nào đó.
Những sớm mai chưa tỏ mặt người ở Pleiku, có thể Thủy đang mơ thấy cùng tôi trở lại dốc Phú Thọ, lều rơm, trái dừa tươi, những tàng lá đồng lõa che đậy chúng tôi; thì, chuyến bay đã ra tới đầu phi đạo; đã stand by...
Không một ai trong chúng tôi tự hỏi liệu đường bay có trọn. (Tôi không biết bây giờ Thủy về đâu? Một người bạn dạy cùng Thủy ở Nguyễn Viết Quỳ nói, Thủy chết trên sông Ba, khi nàng thất thần, tả tơi theo đoàn người tháo chạy trên lộ trình Bảy Kép.) Những sớm mai chưa tỏ mặt người, vẫn ở Pleiku, có thể Ch. đang mơ thấy chúng tôi cùng bước vào căn nhà mới. Căn nhà ba má nàng cất riêng cho chúng tôi, như một thứ của hồi môn mà gia đình Ch. muốn cho nàng trước ngày lấy chồng..., thì, chuyến bay chở tôi và những người lính bình thản đi vào chiến trận (như đi vào một trò chơi quen thuộc nhàm chán,) đã cất cánh. Trong một tình cờ gặp lại Thạc nơi phòng mạch của Bác sĩ Phạm Gia Khánh, một người bạn thuở ấu thơ của tôi, Thạc kể sau tháng 4-75, Ch. đã cạo đầu. Nàng đã vô chùa. Những đứa con của nàng với người chồng chết trong cải tạo, được giao về nội. Bạn tôi đâu biết, Minnesota không chỉ cho tôi hương thơm tình thân, hơi thở của ký ức; mà, /biệt ly/ và, cả mùi cuồng điên của một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Đó là giai đoạn thập niên bảy mươi. Thời điểm này, Huế đối với tôi thân thiết, gần gũi hơn Pleiku, Nha Trang, Đà Nẵng. Tôi có nhiều dịp thả bộ (chứ không phải chạy lúp xúp theo cánh quân của Phán, từ gốc cây này núp qua gốc cây khác..., trong những ngày Tết Mậu Thân.) Tôi thả bộ cùng Hạnh trên những con đường của một Huế/hăm hở lãng mạn, sôi sục đam mê ẩn tàng sau những lớp rêu hưng, phế nội thành; dấu, che dưới những tàng nhãn thiên thu ngậm ngùi bóng mát, Trần Hưng Đạo. Thời điểm này, Huế cũng cho tôi những chuyến bay, từ phi trường Phú Bài, trở về Saigòn, đôi khi chỉ có năm, bảy hành khách. Trong số này, hết ba hành khách, nói theo Kim Tuấn là hành khách nằm, hay hành khách danh dự. Hai hành khách ngồi là chúng tôi. Đó là ba chiếc quan tài bọc thép, được đưa về Saigòn, để từ đó, di chuyển tiếp tới những thành phố miền đông hay miền tây, nơi những người lính này, một thời sinh trưởng. Tác giả Anh cho em mùa xuân bảo, một ngày nào đó, trong những hành khách nằm, có thể là chúng tôi. Tuấn nói, Tuấn chưa muốn làm hành khách danh dự kiểu đó...
Tiếng thế, Tuấn và tôi vẫn không ngừng được những chuyến giang hồ vặt. Lần nào, trong lòng tầu, Tuấn cũng lâm râm cầu, nguyện. (Không biết Tuấn cầu, nguyện cho linh hồn những người lính xấu số, hay cho sự bình an của sinh mạng mình?) Bây giờ, sau hai mươi mốt năm, may mắn, tôi và Tuấn vẫn còn là những hành khách ngồi trên các chuyến bay, dù cho chỗ ngồi của chúng tôi cách nhau tới nửa vòng trái đất.
Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh... Ngay Mục sư Oan, cũng đâu biết, Minnesota, không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức; mà, Minnesota còn mang lại cho tôi mùi thuốc súng / chiến tranh /biệt ly/ và, cả mùi cuồng điên của một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Tôi ngửi được mùi biệt ly, cuồng điên tuổi trẻ mình cùng lúc, khi đứng ngoài ban công ngôi nhà của Long, nhìn xuống những luống hoa tulip của chị Như Anh. Những nhánh cây trắc bách diệp bị Long đốn ngọt ngào (như nước mắt (cũng ngọt ngào) của chị Anh, đi làm về, thấy những thân cây thương, yêu bỗng không què, cụt.)
Tôi nghĩ, tôi hiểu được nỗi tức tưởi nơi chị Anh, như hiểu được nỗi tức tưởi của Phương, khi chúng tôi bất ngờ gặp lại nhau, buổi sáng.
Tôi không nghĩ, đời sống, thời gian còn cho tôi gặp lại người bạn nhỏ, những ngày Cục Tâm Lý Chiến, kia. Tôi cũng không hình dung Phương tiều tụy / ủ dột / rã rượi đến thế! Phương chưa từng lập gia đình. Nàng còn quá trẻ. Phương kể:
“Anh Thiệp chết rồi.”
“Anh hiểu.”
“Những người bạn đồng tù với ảnh, cho em biết. Nhưng em không tin. Em nhất định không tin. Tới ngày...”
“Ngày...?”
“Ngày em quyết định tìm đến nhà ảnh ở đường T. Q.K., tiệm quay ronéo R. Chị ấy xác nhận, ảnh đã chết.”
“Gặp tận mặt?”
“Vâng. Gặp tận mặt. Thời gian đó, em liều lắm. Đó là năm 85, ba em chết ngoài Bắc. Ba em là Đại Tá? Anh biết.”
“Anh biết. Sáng nay, ở đây, những người được truy điệu, dường như có ba em?”
“Vâng. Có ba em. Em ra khỏi nhà, sau bao nhiêu năm, cũng vì chuyện đó. Nhưng...”
“...”
“Nhưng em không nói với ban tổ chức về cái chết của anh Thiệp. Em không muốn ai truy điệu ảnh. Ngoài em.”
“Còn chị Thiệp?”
“Chị Thiệp có chồng khác rồi. Chị lấy cán bộ vào từ miền Bắc... Em, em cần biết chính xác để quyết định ra đi hay ở lại. Nếu chị ấy không xác nhận ảnh đã chết, em sẽ không đi. Em ở lại, tiếp tục chờ ảnh...”
“...”
“Chính chị ấy xác nhận, ảnh bị bắn chết ngoài hàng rào trại, Suối Máu, trong vụ trốn trại đầu tiên. Ảnh và hai người bạn tù, chỉ chạy đây chưa tới trăm thước thì bị bắn. Ảnh trúng đạn trước nhất. Thay vì nằm tại chỗ, ảnh chạy nữa... Xác ảnh được kéo về trại. Mãi năm sau, người ta mới báo tin, trao lại cho chị, ít vật dụng của ảnh.”
“Nhiều không?”
“Không gì cả, ngoài mấy tấm ảnh vợ con, cây thánh giá nhỏ, cái ống vố em ăn cắp của ba em, mang cho ảnh ngày xưa, và con dao. Con dao, vật nhọn duy nhất ảnh có, để... trốn trại.”
“Chị ấy giữ những di vật đó?”
“Không. Chị biểu chị đã vứt đi từ đời nào rồi. Chị biểu, giữ làm gì những của nợ đó. Em còn nhớ, chị vừa nói vừa thản nhiên đưa tay xoa bụng.”
“Xoa bụng?”
“Vâng. Xoa bụng. Lúc đó, chị ấy đang mang thai đứa con thứ hai với người chồng cán bộ. Em không biết mấy tháng. Chỉ thấy bụng chửa vượt mặt.”
Gặp lại Phương trong buổi sáng thứ nhì, ở Minnesota, với tôi là một bất ngờ, bẽ bàng. Tôi không biết phải nói, phải dùng lời gì để an ủi Phương, khi những giọt nước mắt xát muối và ớt lăn xuống từ đôi mắt Phương thất thần nắng, gió.
Tôi biết tin vợ Thiệp lấy cán bộ từ những năm đầu thập niên 80, trước khi tin Thiệp trốn trại. Tôi không có ý trách cứ vợ Thiệp, dù bằng vào nhân danh nào. Đời sống, những năm chiến tranh, những tháng, ngày lưu lạc thứ nhất nơi quê người, đổi thay tận gốc quan điểm của tôi về người nữ.
Tôi cho tội ác lớn nhất của những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Việt Nam, sau chiến tranh, không phải là sự lường gạt những kẻ thua trận với thông cáo đi học tập 30 ngày...; mà, do nơi chủ tâm tàn phá tận gốc rễ nền tảng gia đình của những người thua trận. Họ không chỉ cầm tù những người thua trận, họ chôn sống tập thể đám vợ, con của những người thua trận trong vũng bùn bản năng sinh tồn, nhu cầu bao tử. Chỉ một sớm một chiều, hàng chục ngàn người đàn bà vô tội đã phải vục mặt xuống những bãi rác tanh tưởi của mẩu khoai sùng, sợi mì mốc Liên Sô... Để có được những thứ này nhét vào bao tử, họ đánh đổi thân xác, nghĩa tào khang...
Rất nhiều bằng hữu tôi, khi ra tù, mới vỡ nhẽ, vợ con họ đã lấy cán bộ, đã ăn nằm, đã hầu hạ, đã ôm ấp, nâng niu kẻ giam nhốt, đầy đọa họ. Rồi một đám con cái lúc nhúc ra đời, từ những cơn cào xé của bản năng và, nhu cầu bao tử đó!
May mắn thay, bên cạnh, chúng ta cũng vẫn có những người đàn bà đủ khinh bạc, tự trọng để ngạo mạn đứng trên bản năng. Tôi nghĩ, chúng ta phải đắp tượng, phải xây đền thờ những người đàn bà Việt Nam tiết liệt này.
Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh, thậm chí, Mục sư Oan..., cũng đâu biết, Minnesota, không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức; mà, Minnesota, còn mang lại cho tôi mùi chiến tranh, mùi thuốc súng, mùi biệt ly; và, cả mùi cuồng điên một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Phương nhắc những lần tôi phải nhờ nàng chuyển thư của tôi cho M.Ng. ở Cư xá Sĩ quan Chí Hòa. Khi đó, Ng. học troisième, Marie Curie. Những buổi tối, tôi bỏ trực; Ng. trốn nhà ra cây nhãn dại, bên chiếc hàng rào, ngăn cách cư xá với con lạch nhỏ và khu nghĩa trang Chí Hòa, xưa.
Tựa lưng vào cây nhãn chênh vênh nửa thân ngã nghiêng vào lòng con lạch, cố thu nhỏ bóng mình dưới tàng lá thưa, thấp, thấp, chúng tôi trải những giây phút treo cổ trên sợi dây dục vọng, Những cố gắng chiếm đoạt của tôi, làm Ng. đau đớn bật kêu, dù cho trước đó, Ng. đã cố cắn môi nín, nhịn. Những tiếng kêu cho tôi cảm tưởng vang động tới chỗ nằm của mẹ tôi, anh chị Q. tôi, ở lô C., gần đấy. Những tiếng bật kêu ngắn nhưng nhọn hoắt, xuyên thủng lớp vỏ bọc êm đềm khu cư xá...
Tôi không kể Phương nghe, Ng., từng là một phần thịt xương, máu huyết của đời tôi, riêng. Tôi không kể Phương nghe, sau này, Ng. làm Fly Attendant cho hãng Japan Airline. Tôi không kể, một năm, trước tháng 4-75, Ng. hẹn tôi trong khuôn viên trường Luật, hỏi ý kiến về lời cầu hôn của P., bạn tôi. Tôi bảo, tôi biết P. đang là ca sĩ nổi tiếng. Tôi bảo P. là ngựa chứng. Phải có một nài giỏi... Tôi nhớ Ng. hỏi lại, bộ tôi không buồn chuyện Ng. hỏi sao? Tôi nhớ, tôi đáp, đại ý: Đôi khi quá đau đớn, người ta chẳng thể có phản ứng nào khác hơn gượng cười!
Nước mắt, những giọt lệ tức tưởi của Phương, trong buổi sáng Minnesota đầy nắng ấm, khiến tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể ước ao, chờ đợi gì hơn, nơi người con gái kia, nơi những người phụ nữ Việt Nam, một khi họ đã phải đưa đôi vai lá mỏng của họ ra, gánh chịu nghiệp oan của đất nước.
Tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể ước ao, chờ đợi gì hơn, nơi người con gái kia, nơi những phụ nữ Việt Nam, một khi chính họ đã phải mang sự sống treo ngành, trái tim dễ vỡ của họ phơi trên giàn lửa, sóng? Nhờ họ, (những người nữ lịch sử không ghi công, bia đá không tạc ơn, như người đàn bà mà tôi và Hạnh gọi một cách yêu mến là Mẹ Việt Nam hiện đang ở chung cư Cedar, như bà Tiên, bà Cẩn..., ở Saint Paul, bà Nghĩa, ở Palm Spring, bà Khang ở San Jose, và, hàng nghìn người phụ nữ khác, chúng ta không biết tên,) mà, hơi thở Việt ở quê người hay quê nhà, hôm nay còn thơm tho, mật ngọt.
Nhờ họ, sinh mệnh Việt, những đời sau, còn có thể hãnh diện, ngẩng đầu. Chính họ mang linh thiêng và, sự tốt đẹp làm thành truyền thống Việt. Chính họ làm dân tộc Việt trở nên cao quý. Hãy hình dung dòng giống ta trải bao đời, không có những người đàn bà, như thế?
Cuối cùng, tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể chờ đợi, đòi hỏi gì hơn, khi biết chắc, ít ra, linh hồn bạn tôi, linh hồn người tù cải tạo oan thác Nguyễn Thiệp, còn có một nơi chốn để trở về? Trái tim, ngôi nhà tình yêu nát, ngấu, đợi chờ của Phương.
Cuối cùng, tôi chợt thấu, hiểu, lý do Phương không muốn đưa tên Nguyễn Thiệp, đưa bài vị người tù cải tạo này vào danh sách những người tù uổng tử, để truy điệu, để cầu siêu (dù cùng với cha nàng.) Bởi, (theo ý nàng?) mọi truy điệu, cầu siêu chỉ thực sự cần thiết khi những linh hồn kia, đã không còn có được một nơi chốn hằng cửu, để trở về.
Cuối cùng, các bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh..., thậm chí Mục sư Oan, cũng đâu biết, Minnesota không chỉ mang lại cho tôi, hơi thở của tình thân, hương thơm của ký ức; mà, Minnesota còn mang lại cho bạn tôi, Nguyễn Thiệp, một nơi chốn để về, một cõi yên bình thực sự, để an nghỉ, trường hợp (nhiều phần trăm,) vì lý do, Thánh Phê Rô không thể mở rộng cánh cửa thiên đàng cho Thiệp.
Cuối cùng, Minnesota cũng còn mang lại cho tôi, câu nói thâm trầm, chém đá của Stephen Young, giai tế của cộng đồng Việt ở quê người. Một buổi chiều, giữa Minnesota nắng và gió; đoàn tụ và, chia lìa; hoan lạc và, tủi, nhục; hiện diện và mất tích..., Stephen Young nói: Người Việt Nam đặc biệt hơn các dân tộc khác, ở chỗ, qua chính tâm hồn họ, họ đã tương thông được với Thượng đế, hay một đấng thiêng liêng nào đó, ở trên cao, rất cao.
Hôm nay, nhiều ngày sau khi đã trở lại với đời sống oe óc thường nhật của mình, ở California, tôi muốn nói với người con rể của Việt Nam luân lạc rằng: Tôi không thể đoán chừng Stephen sẽ nghĩ gì, khi biết dân tộc Việt Nam còn có những phụ nữ tự biến họ thành một trang thờ (trong tâm,) một mái nhà (buồn bã,) một nơi chốn (đìu hiu,) cho linh hồn người chết, trở về? Và, linh hồn lạc loài này, có thể làm một cuộc định cư êm đềm, vĩnh viễn.
ai di truyền gene ấy cho ta
ngay tự thuở thiên đàng chưa tiếng khóc
ai di truyền gene nhớ ấy cho ta?
thơ dtl.
Phấn hỏi tôi, có thể cho Phấn ra ngoài một chút. Phấn bảo:
“Phấn nghĩ, không mưa được nên trời ngột ngạt quá.”
Tôi nhìn qua anh Hạnh. Lúc này anh Hạnh đã yếu lắm rồi. Cơn đau do căn bệnh ung thư gan đã như những đợt sóng lớn, không ngớt va, đập cùng khắp thân thể anh. Chỉ mới vài tháng, dù thấy anh hàng ngày, tôi vẫn ghi nhận được sự biến mất mau lẹ của phần xương thịt nơi anh. Từng mảng tóc rời ra, rụng xuống, tựa từ trước đến nay chúng được gắn tạm bợ vào lớp da đầu anh bằng một thứ keo dính rẻ tiền. Căn bệnh ung thư gan đã gọt mỏng anh từng phúc. Tôi không thể bỏ ra khỏi phòng khi anh Hạnh chưa tỉnh lại, dù, tôi biết Phấn đang bị khích động. Những đường gân xanh hai bên thái dương Phấn giựt giựt. Mồ hôi tự đâu đó, tươm ra, bệt lấy những sợi tóc mai và những cọng tóc nhỏ vương trên trán. Da mặt nàng ửng đỏ, tựa tất cả số lượng hồng huyết cầu còn sót trong cơ thể, bảo nhau huân tập về, tranh chấp nhau, để được hiện ra, như một có mặt đầy hoan lạc. Đôi mắt vốn long lanh đẫm, ướt hiu quạnh của Phấn, bỗng rực rỡ những ngọn lửa nhảy nhót bồn chồn, xao xác niềm vui, hay, khát khao quăng ném đời mình lên đỉnh ngọn tung tăng đam mê nào.
Có thể tôi sai trong những ghi nhận này. Có thể, nhiễm hơi rượu, lây cơn say của Scarlett (và Rhett,) trong Gone with the Wind mà tôi là người đọc cho anh Hạnh và Phấn nghe lúc nãy, làm tôi xây xẫm?
Tôi nghe trong tôi, những lượng máu vươn vai đứng lên. Những ngọn máu tạo thành những con sóng nóng, sốt, bừng, bừng thân thể, cháy ran thần trí. Có thể chính tôi bồn chồn, xao xác, muốn quăng, ném mình lên ngọn đỉnh rần rật đam mê nào đấy. Tôi đó. Mày đó, Hữu ơi. Kẻ xa lạ rất thân quen, gần gụi vô cùng với mày. Tuồng nó hằng ẩn nấp trong tôi kể từ ngày biết Phấn. Tuồng nó hằng thăm tôi trong những giấc mơ đầu hôm, những cơn mê nửa sáng... Những giấc mơ tệ hại. Những giấc mơ, khi tỉnh rồi, tôi còn thấy mình xấu hổ, tội lỗi... Lạy Chúa! Xin Chúa hãy tha tội cho con. Xin Chúa chứng dám cho những điều con không hiểu nổi...
Những giấc mơ tôi thấy mình ngã xuống (hân hoan ngã xuống,) kéo theo Phấn. Nàng ngã đè lên người tôi. Phấn la lớn:
“Bắt được rồi. Bắt được rồi... Được rồi!..” Tiếng la (như reo) của Phấn làm anh Hạnh trong một góc nhà phải mở mắt.
Anh mở mắt để thấy rõ cảnh Phấn đang ôm tôi. Phấn hôn tôi. Và, (nhiều phần, chắc vậy,) tôi cũng đã ôm lại, hôn lại nàng...
Mùa lạnh không đến bằng rét mướt mà, bằng những bàn tay đầy phép lạ. Những bàn tay xoa trên những chiếc lá mỗi đêm, biến chúng đang từ mầu xanh, trở thành vàng, rồi nhờ gió, bứt, lìa chúng rơi khỏi cành, nhẹ nhàng như người ta phủi những hạt bụi dính đâu đó, trên tay áo.
Tôi theo Phấn đi lần về cuối hành lang. Mỗi bước chân rời xa căn phòng anh Hạnh, là một gần hơn, nỗi hồi hộp hứa hẹn bất ngờ quyến rũ. Cái quyến rũ hai mặt: hoan lạc và khổ đau. Tôi ngửi được từ tóc hay, từ thân thể Phấn, mùi nước hoa thoảng nhẹ. Điều gì khiến hôm nay, Phấn sức nước hoa?
Chiều nặng tay hơn với game mầu xám sơn trét loang lổ, không đều lên cảnh vật. Những con chim sẻ cuối cùng cũng đã bỏ đi sau khi giật mình, ném lại những tiếng kêu thất thanh. Những chiếc bã đậu to bản, rớt xuống nền xi măng, bật kêu, thành những thanh âm nhọn.
Bất ngờ Phấn nắm tay tôi. Bất ngờ Phấn khựng, đứng lại. Những ngón tay Phấn bấu vào da thịt tôi, qua lớp vải dầy, còn cho cảm giác đau nhói. Phấn níu chặt, như muốn trốn chạy điều gì.
Tôi vòng tay ôm giữ thân hình nhỏ bé đang run rẩy của Phấn.
“Phấn. Phấn thấy gì vậy?”
Dưới thấp, những băng ghế đá, những lùm hoa, những gốc cây cũng bắt đầu hắt ra những hình ảnh méo mó của nhiều khuôn mặt người kỳ dị. Gió từ bậc cấp thấp nhất, ném ngược lên hơi lạnh và, tiếng hú mơ hồ, chứa đầy bí ẩn. Giữ chặt Phấn trong tay tôi, tôi bảo:
“Đừng sợ. Đừng sợ Phấn. Có gì đâu. Có gì đâu...”
Mỗi lúc Phấn một rung hơn. Cái rung của một người vừa phải chứng kiến một cảnh tượng gì ghê khiếp lắm.
“Đó. Đó, anh Hữu...”
Đăm đắm theo dõi từng biến động của cảnh vật trong sân, tuyệt nhiên tôi vẫn không thấy một hình ảnh hay một chuyển động bất thường nào, ngoài những chiếc lá bã đậu, thỉnh thoảng rơi xuống mặt đất, nhẹ nhàng, như chúng được nâng, đỡ bởi một bàn tay vô hình. Tôi lắc đầu:
“Tội nghiệp Phấn. Tội nghiệp Phấn. Anh không thấy gì hết. Không gì cả. Ngoài mấy chiếc lá rơi... Chỉ có mấy chiếc lá rụng thôi, Phấn à.”
“Thì đó. Đó. Chính nó đó...”
Những ngón tay Phấn tiếp tục lẩy bẩy rung như những sợi dây đang căng, bị ai đó lay giật mạnh. Hay đôi mắt của người sắp chết có thể nhìn thấy, những thứ mà người bình thường như tôi, không thể nhìn thấy? Tôi nghĩ tới hình ảnh, sinh hoạt của thế giới vô hình, thế giới khác. Thế giới của những người đã chết? Tôi nghe lạnh. Cái lạnh chạy cùng khắp thân thể. Là người Công giáo, tôi được dạy dỗ không có thế giới ma quỷ. Nhưng khoảng cách giữa lời dạy bảo và, cảm nhận mơ hồ làm thành nỗi sợ hãi nổi gai ốc, chỉ cách nhau một màng tơ mỏng.
Những trận gió mới, đâu đó, thình lình thổi tới. Chúng rung tất cả những gốc cây trong sân bệnh viện. Những chiếc lá vàng, gồm luôn cả những chiếc lá còn xanh, yếu, theo nhau ào ạt bay tung lên cao, trước khi lần lượt gieo mình xuống nền cỏ xanh, như những con cá bằng thiếc, nhiều màu, liệng, liếc mình trên mặt nước lặng.
Tôi nghe được trong gió, hơi buốt giá của nước. Tôi nghe được trong gió, những nhắn nhe đe dọa về một trận mưa lớn sắp tới. Nỗi mịt mùng, bất trắc đã tung xong mảnh lưới, vây bắt tôi.
Lúc này, Phấn đã tuột rơi quá sâu trong nỗi khích động bí ẩn của nàng. Tôi biết, tôi không thể làm được điều gì khác hơn, dìu Phấn trở lại chỗ nằm. Ai đó, đã bật cho Phấn, ngọn đèn nhỏ đầu giường. Những tấm màn cửa dầy, nặng mầu rượu chát thẫm, đã được kéo kín. Phần ăn chiều bày sẵn trên chiếc bàn ăn nhỏ kê góc phòng. Cảm giác ấm áp, bình an trở lại trong tôi.
Đặt Phấn nằm ngay trên giường, vừa gỡ tay Phấn, tôi vừa dỗ dành:
“Phấn nằm nghỉ chút rồi ăn cơm...”
Phấn không trả lời. Nàng mở mắt, nhìn tôi, khép lại. Ánh mắt kỳ lạ, khó hiểu. Nó cũng kỳ lạ, khó hiểu như đôi tay Phấn không muốn rời khỏi cổ tôi. Tôi nghe được sức nặng gia tăng từ vòng tay nàng. Tôi nghe được sự trì, níu nơi những ngón tay nàng và, cả nơi nhịp đập bắt đầu bất thường của trái tim tôi.
Tôi thấy tôi đuối dần. Sự đầu hàng hấp lực của mùi thơm kia, chỉ là vấn đề thời gian. Nhiều phần, dường như tôi muốn được dìm mình sâu hơn trong mùi thơm đó. Nhiều phần, tuồng như, tôi trở nên tham lam, hối hả thở hít mùi thơm này. Nhiều phần, trong tôi, dường mọc lên niềm sợ hãi mới. Niềm sợ hãi bị hất ra, bị ném xa khỏi vùng mùi thơm thẩm thấu.
Trong đáy cùng ý thức, tôi thấy tôi kêu cầu tới Chúa. Tôi cầu khẩn sự trợ giúp của ngài. Nhưng (cũng dường như,) đó chỉ là tiếng gọi kêu yếu ớt. Tiếng gọi kêu thầm thì không âm vang và, cũng không hề mong Chúa nghe được...
Khi tôi tỉnh dậy, căn phòng yên tĩnh một cách khả nghi, đáng ngại. Ngọn đèn nhỏ trên mặt bàn thấp nơi đầu giường, đã tắt.
Cúi sát mặt Phấn, tôi nghe được hơi thở Phấn nhẹ, thật nhẹ, đôi khi bị đứt quãng, tựa đó không phải là hơi thở của một người sống.
Ngả lưng nằm xuống lại, tôi cảm được những lượng nước băng giá không ngớt tuôn đổ trên thân thể. Tôi cảm được mùi ân hận/ tội lỗi / giận dữ/ điên rồ.
Đôi mắt tôi trừng trừng mở lên trần nhà phẳng. Cả một khoảng trần trắng buốt, miết, miết chạy tới căn phòng anh Hạnh ở cuối dãy. Mầu trắng buốt, miết, miết chạy tới căn nhà cũ, của gia đình tôi, đường Hồng Thập Tự.
Ở ngôi nhà này, tôi gặp lại đôi mắt hiền từ/ bao dung/ che chở/ của mẹ tôi (đôi mắt lấp lánh bao niềm vui,) cùng lúc, (cũng biết bao) muộn phiền. Những muộn phiền tiêu trầm kinh ngạc, gập gềnh xót xa...
Tôi thấy tôi a vào lòng bà. Đôi tay bà mở rộng (luôn luôn đôi ta bà mở rộng,) chờ đón tôi. Tuồng chẳng bao giờ bà biết quay lưng, xua đuổi.
Tôi cảm được vòng tay thương yêu của mẹ tôi, đang bao phủ, gìn giữ, che chở tôi trong hương vị ngọt ngào của rất nhiều trái chín.
Tôi cảm được hơi ấm của những dòng nước biển tắm gội tôi, rửa sạch tôi: những giọt lệ nóng, lăn đi từ đôi mắt mẹ tôi, trên cao. Tôi cảm được tiếng thở ra rất nhẹ: tiếng thở dài của bị nén xuống. Lời ca cẩm bị giữ lại hay, đã nuốt đi của bà. Tôi cảm được những ngón tay thương yêu của mẹ tôi, đặt lên trán tôi. Hơi mát từ những ngón tay ướt tươm tình mẫu tử. Tôi nghe được từ đâu đó, (tiếng vọng của quá khứ?) tiếng chân mẹ tôi xuống bếp. Có dễ bà muốn chuẩn bị cho tôi một bát cháo hoa hay một bát miến gà, (như thói quen mấy chục năm trời, mỗi khi bà bị cảm tưởng đứa con trai thương yêu của bà bị cảm sốt.)
Tôi muốn mở miệng, muốn thú nhận tội lỗi với bà. Tôi muốn bà là người trước nhất, nghe, đầy đủ, tỉ mỉ từng chi tiết, những gì vừa xảy đến cho tôi.
Tôi muốn. Tôi muốn. Muốn. Nhưng những lọn tóc của Phấn vương ngang mặt tôi. Dường mùi da thịt/ nước hoa/ xà bông/ (thậm chí mùi thuốc, mùi nhà thương ứ đầy ngực thở.) Tôi nghe sức nặng thân thể ai đó, đang đè lên tôi. Sức nặng kia mỗi lúc một gia tăng trọng lượng. Tôi nghe đôi tay tôi quơ trong không gian, như cử chỉ biểu lộ sự kêu cứu một cách tuyệt vọng đầy hạnh phúc. Tôi thấy đôi tay tôi khép dần. Những ngón tay tìm thấy nhau, làm thành một vòng tròn nhỏ. Nhỏ mãi... Cho tới khi tôi cảm được những rẫy rụa êm ái cùng hơi thở cuống quýt, nóng bỏng dập dồn của Phấn. Tôi nhận ra hình ảnh mẹ tôi xa dần rồi, nhòe nhạt. Tôi nhận ra hình ảnh anh Hạnh trong dáng vóc của một thiên thần, vỗ, đập đôi cánh trắng. Những vỗ đập đều đặn, dịu, nhẹ như tiếng gió lăn những đợt sóng biển bơ vơ vào kè đá. Gió hay sóng biển (?,) đôi cánh tay hay tiếng thở ra nhẹ hẫng của mẹ tôi đã đỡ, nâng Phấn và, tôi bay khỏi mặt đất. Chúng tôi nắm tay nhau, bay như hai con chim có chung đôi cánh, giữa bầu trời ngọc bích. Chung quanh chúng tôi, hàng triệu cánh bướm non (những cánh bướm ngọc bích,) cao hứng rủ nhau uốn lượn trong một điệu vũ mỗi lúc mỗi nhanh hơn. (Có lẽ vì thế) bầu sữa xanh vây bọc tôi mỗi lúc một thêm đậm đặc.
Tôi thấy tôi hát ca theo bướm. Tôi thấy tiếng cười Phấn dường mỗi lúc một thêm xanh hơn, (đậm đặc hơn...) Tới một giây, thình lình, Phấn giựt tay ra. Thình lình tôi thấy mình băng, băng lao xuống, trong lúc Phấn lên cao hơn. Khoảng cách giữa chúng tôi chỉ còn được nối liền bằng tiếng kêu thất thanh của tôi, và tiếng cười vỡ vụn, nhỏ dần của nàng.
Mưa mệt nhọc thở từng giọt nặng, rời rạc lên cảnh vật. Gió ì ạch, hào hển lăn qua những bờ tường; xấu hổ nép mình dưới những cành du thấp.
Tôi phóng xe vào giữa cơn hấp hối của trận mưa chiều. Chân trời rạn những đường nứt thủy tinh lấp lánh. Vài con chim thiếu kiên nhẫn bay sảng giữa trời, như những chấm đen lạc điệu rớt trên nền xanh lấm tấm của bức tranh còn ướt.
Tôi hiểu, nỗi bồn chồn, nôn nóng nào đã có trong tôi từ sau giờ học. Tôi thấy, (dù mù mờ,) khuôn mặt rách nát buồn rầu hay, cái chân dung lồi lõm những bất trắc thảm, thiết. Tôi cố gắng để không nghĩ tới một bất hạnh nào.
Mưa tạnh hẳn. Đường vắng. Những cành lá du hớn hở kheo áo mới. Những giọt nước còn sót lại trên cây, theo gió, rơi nốt xuống mặt đường. Buổi chiều hăng mùi hơi đất và, lá mục. Mùi hăng cũ, cũ. Tăng chân ga tới mức tối đa, nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thấy nó quá chậm. Tôi không thể phân biệt chiếc xe chạy chậm hay lòng tôi đang quá nóng nãy. Tôi cũng không phân biệt được trong tôi, dường có nỗi bồn chồn; hay, ai đó, ngoài tôi không ngừng hối thúc, đẩy, xô tôi lao tới.
Sinh hoạt nhà thương bình thường. Tôi không thấy một khác biệt, xáo trộn nào nơi cảnh vật. Vẫn những băng ghế đá cẩm thạch kê chung quanh khu vườn hoa được chăm sóc kỹ lưỡng. Vẫn những con chim sâu, chim sẻ và dăm ba con chim ức đỏ nhảy nhót trên những cành thấp hay chúng ghếch mỏ lên trời nhìn những đám mây chiều mầu trắng, mang ánh sáng lóng lánh, trải lên những cành bã đậu đã rụng gần hết lá. Vẫn những khuôn mặt bệnh nhân quen thuộc, thả bộ trong sân. Vẫn những chiếc xe làm vườn, xe chở thức ăn chạy rất êm, như lướt, trôi trên các ngả đường yên tĩnh. Cảnh vật cho lại tâm hồn tôi sự êm đềm, niềm hy vọng tốt lành cho mong ước.
Vài phút sau, tôi thấy tôi đứng trước giường bệnh của Phấn. Chiếc giường mới thay drap, trải chăn mền mới. Căn phòng thơm mùi hoa hồng từ những bình thuốc khử mùi hôi. Trên chiếc bàn nhỏ kê ngay đầu giường của Phấn, vẫn là cuốn sách Thánh Kinh, (của bệnh viện?) Mọi thứ vẫn nguyên vậy. Chỉ một điều, Phấn không có đó. Phấn đã rời khỏi. Phấn đã đi nốt những bước chân cuối cùng, của nàng, trong cuộc đời này. Phấn đã thở nốt những hơi thở cuối cùng, của nàng, ở nhân gian này. Tôi, không hề được đi chung, những bước cuối cùng kia. Tôi, không hề được thở chung, những hơi thở sau cùng nọ.
Ít ngày sau đám tang của Phấn, tôi nhận được thiệp cám ơn (của gia đình nàng?) và, một lá thư của Phấn.
“Cảm ơn anh đã cho lại em Cuốn Theo Chiều Gió, một lần nữa, dù không trọn vẹn. Dẫu sao, đó cũng là quà tặng cuối cùng em nhận được từ đời sống này. Một đời sống em rất tha thiết, muốn ở, muốn ôm nó vào lòng, nhưng chẳng ai cho, luôn cả Chúa...
“Cảm ơn anh, buổi tối khi em run sợ. Khi em sợ những chiếc lá cuối cùng trên cành bã đậu sẽ rụng nốt trong đêm, hoặc có trễ tràng lắm, thì cũng chỉ tới sáng hôm sau là cùng. Anh đã phủ lấp lên nỗi sợ hãi của em bằng tất cả vị ngọt, nỗi đau xé banh thịt da em...
“Tiếc khi còn sống, em không đủ can đảm cho anh biết, em sợ những chiếc lá rơi. Em thấy dường giữa em và những chiếc lá kia, có một liên hệ kỳ bí nào đó. Kể ra, em sợ anh cười em. Anh cho em dị đoan, ảnh hưởng tiểu thuyết... Em sợ, anh sẽ không buồn nhìn nhỏ tới em. Anh sẽ không chơi với em nữa.
“Anh thân mến, anh một lần, một lần, một đời của em, dẫu gì, khi thư này tới tay anh, thì em cũng đã không còn. Nếu em có linh hồn như người ta thường bảo, thì, em sẽ ở bên anh trong lúc anh đọc thư này. Em sẽ nói bên tai anh, những lúc anh một mình; dù cho anh chẳng nghe được tiếng em, cảm, được hơi thở em. Em sẽ nói, anh yêu dấu, cách gì, cũng hãy tội nghiệp mà tha thứ cho em. Tội nghiệp và tha thứ cho một con bé khi chớm hiểu biết, ghi nhận thì đã mất mẹ. Khi chớm nghe được những rung động, hiểu được những khát khao tình yêu, trai gái, thì cũng là lúc, em biết, tử thần đã đợi em dưới chân thang lầu.
“Anh thân mến, trước khi chết, em chỉ có một mơ ước không thành. Đó là mơ ước được đi dạo cùng anh, một lần, nơi đoạn đường, theo mô tả của anh: Đường hầm làm thành bởi những cành me già giao nhau, trên cao. Vào những ngày nắng, đó là khúc đường ngọc. Khúc đường xanh, trong suốt như thủy tinh. Với những chiếc lá nhỏ xíu reo, trên cao, mỗi khi gió tới, trên đầu ta, là hàng triệu cánh bướm non, bỗng không, cao hứng, rủ nhau đập cánh nhịp nhàng trong một vũ điệu nhanh. Những tiếng rì rào, trên cao, thả xuống, như lời tỏ tình (với những ai còn cô đơn,) lời mời mọc thiết tha, rủ rê thành khẩn (với những người đang có tình yêu,) hãy nhón gót, hãy kiễng chân, lấy đà, bay lên để cùng hát, ca với chúng...
“Đấy, anh Hữu, anh sợ chưa, trí nhớ của em, trí nhớ người sắp chết. Em nghĩ, cô Scarlette ngày xưa, có nhớ những gì liên quan tới anh chàng Breth và mối tình của cô ấy, thì, cũng đến như em là cùng, chẳng thể hơn được...
“Mơ ước không đạt được kia, chẳng lâu nữa đâu, em sẽ đạt được bằng một thể, dạng khác. Em sẽ đạt được, chắc chắn mà anh Hữu. Bộ anh không tin sao? Em sẽ đạt được, không lâu nữa, khi mà bệnh hoạn cũng như thân xác này, không còn một chút quyền hạn gì để tiếp tục trói buộc, kìm giữ em. Em sẽ thực hiện mơ ước em, trong một thể, dạng khác.
“Anh Hữu, mà anh đừng vội nghĩ, em sẽ đi một mình. Không có đâu. Em sẽ đi cùng anh, mỗi khi anh ngang qua khúc đường đó. Chỉ sợ tới lúc đó, khi anh nghe được những lời mời mọc thiết tha, những rủ rê chân thành của những cánh bướm vỗ đập dịu dàng, trên cao, anh sẽ không nhớ tới em, không nghĩ rằng em đang đi bên cạnh anh mà, anh sẽ nghĩ, tưởng tới một người nào khác!
“Trường hợp này, ở bên kia thế giới, dù có buồn, có hờn, ghen, em nghĩ, cũng chẳng cách gì, em biểu lộ cho anh biết được.
“Thôi thì, em sẽ tự nhắc nhở mình, cố nhớ lời anh, đừng nghĩ ngợi gì cả. Em sẽ cố nhớ lời anh, để khi thấy anh, đi với một người con gái nào khác, em sẽ reo theo gió, sẽ hát theo lá, sẽ chỉ là một trong hành triệu cánh bướm non, vẫy, hò sau bước chân anh...
“Ơ này, anh, anh Hữu... Liệu anh có nhớ là anh đã nói gì với em không? Chắc em phải nhắc lại mất thôi. Có sao đâu. Để em nhắc lại, như một nhắc nhở chính em rằng: đừng quên một lần, anh Hữu bảo: hạnh phúc hay khổ đau cũng chỉ như mặt khác một đồng tiền, mặt khác một tấm sương gương soi...
“Chỉ một điều em muốn biết (dù rất muộn màng) là, giờ đây, khi đọc những dòng chữ này, anh còn nghĩ vậy?
khi / tôi / không còn nữa
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
thơ dtl.
1.
Căn phòng bị ngăn đôi bởi bức vách bằng gỗ dầy, di động được trên một đường ray sắt. Khu nhà bếp và quầy rượu chạy hết cạnh dài căn phòng. Khách vào bằng hai cửa khác nhau. Bên có sân khấu, sàn nhảy, kê được khoảng 20 chiếc bàn tròn, thích hợp cho một cuộc họp mặt trên dưới hai trăm khách. Phần còn lại nhỏ hơn, chỉ khoảng trên dưới mười bàn ăn cố định.
Cuối hè, Dallas/Fort Worth tiếp tục phơi những đường nẻ, nứt của thịt da mình trong mùa hạn hán kéo dài từ cuối năm trước. Buổi chiều, một trận mưa thình lình, ngắn ngủi, chỉ làm đám bụi cà giựt dính vào nhau, thành những viên đất sần, sùi, bốc mùi nồng, mốc một cách khả tín. Người con gái đẩy cửa bước vào lúc ban nhạc đang thử âm thanh. Số người trong ban tổ chức, có mặt sớm, ngơ ngác nhìn cô. Hơi nóng ngột ngạt dịu lại, không biết có phải do nhan sắc trẻ thơ và, dáng ngổ ngáo lạnh tanh nàng mang tới? Hay sự xuất hiện của cô làm bao trông ngóng, bồn chồn, của mọi người trở nên gập ghềnh, tản mát?
Người con gái thản nhiên bước tới chiếc bàn tròn dành cho ban nhạc, kê gần cửa ra vào. Trên bàn một số sách bày lộn xộn. Cô vói tay nhặt lấy một cuốn; lật qua lật lại; đọc lướt vài trang, quay lại, nhìn người đàn ông trung niên, lạ mặt.
Cô phải nghiêng đầu, chồm người về phía trước, bởi sự ngáng trở của mấy nhạc công, giữa họ. Người đàn ông trung niên đang nói gì đó với một thanh niên. Người con gái mỉm cười (bằng cả môi, mắt.) Dường họ biết nhau. Người thanh niên chào lại, cũng bằng nụ cười và tiếng nói lí nhí. Người đàn ông có sợi lông hung đỏ mọc trên chiếc nốt ruồi thịt chấn giữa đỉnh gò má trái, ngồi giữa người con gái và người đàn ông trung niên đột ngột cất tiếng:
“Hôm nay cô Ngân đi gặp thần tượng của mình?” Sợi lông mầu hung đỏ ngúc ngoắc trên chiếc nốt ruồi thịt của ông, như tán thưởng câu hỏi mang tính xác định của chủ nó. Tựa câu hỏi như một phát giác (tố giác?) bí mật ghê gớm.
Người đàn ông hướng sợi lông (như chiếc ăng ten nhỏ tí) về phía người đàn ông lạ mặt. Không một ai dám quả quyết nó có tiếp nhận được làn sóng nào chăng. Những chuyên viên, nhạc sĩ đang thử âm thanh, nhạc khí ngưng, lặng. Câu chuyện giữa người đàn ông lạ mặt và thanh niên cũng bị cắt, phựt. “Tôi không muốn nhận láo là đi gặp thần tượng của mình. Chỉ có thể gọi là thần tượng một khi mình biết thật rõ về ông ta...”
Người con gái đáp, cũng thản nhiên, gập ghềnh như lúc xuất hiện. Người đàn ông trung niên nhận thấy, khi nói, tuồng môi trên của người con gái cong cớn hơn, thuận chiều với mặt ngẩng cao, thoảng chút cà rỡn, khinh khi hắt lên từ toàn thể khuôn mặt. Bắt gặp mắt nhìn của người đàn ông, cô mỉm cười, gật gật; ý hỏi: Ông thấy tôi trả lời ra sao? Được đấy chứ?
Người đàn ông lạ mặt cười, cười. Ông chào (?) Biểu đồng tình (?) Hoặc hàm ý: Hay. Trả lời hay (?) Sau khi tự giới thiệu với nhau bằng cách đó, người con gái nói chuyện với người đàn ông có phần thoải mái, tự nhiên. Như thể, nhờ cách giới thiệu đặc biệt này mà giữa họ, đã không còn khoảng cách. Người con gái kể cô không được mời. Tình cờ buổi trưa, một người trong ban nhạc, nói tối nay có buổi họp mặt, tiễn chân người đàn ông trung niên về lại California. Sau khi thu xếp chuyện riêng, cô đến.
“Tối qua, Ngân đã không được gặp anh trong buổi họp mặt chính thức. Tối nay lỡ nữa, e không còn cơ hội,” cô ngập ngừng (tìm chữ, thở, hoặc lựa cách thế biểu lộ khác?)
“Thích thì đi, không thích thì ở nhà, đâu cần ai mời, phải không anh?”
“Đúng thế.”
Đôi mắt người đàn ông dừng lâu trên gương mặt trẻ thơ, bộ ngực vun cao, phơi mở lưng chừng, ăn ý với đôi môi cong, chiếc mũi hếch (biểu lộ phần nào tự tin và niềm hãnh tiến,) của người con gái. Người đàn ông định nói điều gì đó. Thí dụ, dường ông đã gặp cô. Thí dụ (một viên sỏi thăm dò đáy nước,) có muộn màng chăng, gặp gỡ chốc lát này? Hoặc giả, cũng có thể ông muốn bảo, đây không phải là chỗ của chúng ta...
Nơi chốn nào cũng có thể làm thành định mệnh; vì, mỗi chúng ta, cách gì, cũng chỉ là con rối trong cánh tay thô bạo, hàm hỗn của định mệnh mà thôi. Gần tám giờ tối, nắng còn dát những sợi vàng mỏng dính lên bậc tam cấp và, cẩn những hình chiếc lá nâu, bóng, lên mấy thân cột gỗ hình vuông, tạo thành một khung cảnh tách biệt khỏi ngôi quán. Bầu trời xanh quánh, xéo góc, rất xa. Từ nơi đó, người ta có thể nhận ra các đỉnh núi đang bị mây ăn nham nhở, từng miếng lớn. Người đàn ông có sợi lông hung đỏ mọc trên chiếc nốt ruồi thịt, đẩy về phía người đàn ông lạ mặt chai bia và, ly đá cục. Ông nói:
“Anh dùng một chai cho mát.”
“Cảm ơn anh. Tôi không uống được.”
Người con gái nâng ly bia chấp chới bọt trắng lên môi, cùng một đuôi mắt nheo, nheo, tựa chọc ghẹo, (thách thức?) Chàng thanh niên kéo chai bia về phía mình:
“Để cháu đỡ cho chú.” Anh rót bia vào ly của mình; nhấm một ngụm nhỏ, xong, đứng lên, đi về phía quầy. Người con gái ngoái cổ; nhìn theo; quay lại; nói với người đàn ông lạ mặt:
“Ngân cảm tưởng trong số khách tối nay, chúng ta thiếu một người.”
“Hoặc quá nhiều người dư thừa?”
Người đàn ông đáp. Cô bật cười hồn nhiên, ngắm nghía bọt bia thở rụt rè từ đáy cốc: “Có những sự thật, ta không nhận ra chỉ vì màng lưới vô tình trùm lấp.”
Người đàn ông lạ mặt đứng dậy. Ông mơ hồ đoán hiểu người con gái ám chỉ sự vắng mặt nào. Ông mơ hồ cảm nhận từ lúc ông đặt chân trở lại thành phố này, những người bạn ông, dường cố tình không đề cập tới sự vắng mặt kia. Có thể, mọi người không nhớ trong mọi sinh hoạt của họ, đã lâu, không còn hiện diện nọ. Có thể, họ cũng không hề biết, kẻ vắng mặt đang hiện diện ở một nơi chốn khác.
Nơi chốn nào, thời khắc nào cũng chỉ là sân khấu cho nhân loại (những con rối) diễn lại tấn tuồng tranh chấp bất tận giữa đau, khổ và hạnh phúc / tình yêu và phản bội / thú tính và tánh thiện/.
Sự biến mất của nàng, tựa viên đá nhỏ mất tích giữa lòng biển lớn. Viên đá lăn xuôi, chìm sâu, không tiếng động. Nó biến mất. Không hề sủi lên, dù chỉ một vài chiếc tăm, vĩnh biệt.
Nếu có những bỏ đi như một trốn chạy nhòm ngó / mỉa mai / thương hại / riễu cợt / tội nghiệp... thì vắng mặt này, thuộc tình huống đó. Tình huống ngỡ ngàng, kinh hoảng sau những nỗ lực rốt ráo, tận cùng để chuẩn bị cho một lên đường mới. Một lên đường, lỡ. Lên đường, đi về phía của những mơ ước, khát khao đã nhiều lần nổi gai ốc cọ sát/ cầm nắm/ ve vuốt/ ôm ấp.
2.
Dù biết rõ Nhím rời khỏi thành phố này, dễ đã hai năm, khi trở lại, tôi vẫn thấp thỏm, chờ đợi Lê Văn Ninh, Đào Bá Hùng, một tiết lộ, một tin tức gần xa, thấp thoáng về Nhím. Tuyệt nhiên không. Hình như trong ký ức Ninh, trong trí nhớ Hùng, đã không hề có một chỗ nhỏ nhoi cho Nhím. Càng không thể có một diện tích khiêm nhường trong hồi ức của Khoa, Ngọ, hoặc, Ý Như... Dường Nhím là một nhân vật chưa hề hiện diện (nhạt mờ / gay gắt) trong trí nhớ bạn tôi. Mấy đêm nằm với Ninh; những giờ khác đi chơi, trò chuyện với Hùng; buổi chiều đi ăn với vợ chồng Ngọ; giữa trưa đi với Ninh và Ý Như... nhiều người bạn, nhiều khuôn mặt, nhiều nhân vật được bạn tôi nhắc nhở, tường thuật, đôi khi tới tỉ mỉ. Vậy mà, giữa bao đền đài kỷ niệm dựng lại kia, đều không một chút thấp thoáng bóng hình Nhím! Tuồng, những năm tháng ở đây, Nhím chỉ là một hình nộm. Tôi hiểu, sau biến cố tháng Mười ở Houston, khi những nỗ lực sau cùng của Nhím vừa đạt tới, cũng là lúc Nhím chợt nhận ra, liên hệ / cuộc tình tôi và Nhím đã đổi khác. Tôi hiểu, Nhím bẽ bàng, đau đớn dường nào!
Tôi hiểu, Nhím không thể có một chọn lựa nào khác hơn bỏ đi. Nhím không thể ở lại cái thành phố, nơi chúng tôi có lại nhau, như có một cục bướu hạnh phúc nhức nhối. Nhím không thể ở giữa những cánh rừng tulip, mỗi năm một mùa rộ nở vết thương. Nhím không thể ở lại cái thành phố mà, mơ ước mỗi ngày mỗi tăng trưởng thịt da; kỷ niệm mỗi ngày mỗi lớn, khô bất trắc.
Đó là thành phố của những đêm mưa, chúng tôi chạy nhầu khắp đường phố tìm nhau.
Đó là thành phố của những buổi ăn tối, hai đứa ngồi nhìn nhau qua thân nến lung linh, nhiễu chảy ngập ngừng những giọt lệ sáp. Cùng lúc, nơi đôi mắt Nhím, những giọt lệ (sẽ tan đi,) cũng nhiễu chảy từ những thân cây ký ức bầm, xót.
Đó là những lần Nhím kể tôi nghe về tuổi thơ nàng. Người cha bằng hữu, đã qua đời. Bước chân tị nạn đầu tiên, khi Nhím mài gót trên mặt nhựa phi trường, đất lạ. Những nguyền rủa của P., (những phản ứng bất cập, mặc cảm hôn, ám?)
Tôi hiểu, Nhím không thể có một chọn lựa nào khác hơn, trốn chạy khỏi nơi ươm trồng những hạt mầm mơ ước, sớm yểu kia. Nếu mỗi mảnh đời bị xẻ, lìa bởi một lỗi lầm thì, cuộc đời Nhím được khâu dính bằng sâu chuỗi lỡ lầm tiếp, tiếp. Nhím đã bước những bước chân châng lâng, hẫng, hụt từ góc đời này, qua mũi đời khác. Ở gặp gỡ sau chót, ở chọn lựa cuối cùng (?,) với tôi, Nhím đã vắt cạn lòng son, chắt kiệt máu sót, nhỏ xuống bờ luống chênh vênh đời nàng. Nhím đã liều lĩnh chấp nhận số phận bị ném đá/ đuổi, xua/ khỏi bầy. Số phận của một con chiên ghẻ, cam đành giao, bán linh hồn cho Satan, một khi mọi vận động hủy bỏ hôn phối nơi tòa án đạo của nàng, bất thành. Nhím nói, nàng đã chọn lựa. Nàng đã lên đường. Một lên đường không ngõ lui; một chọn lựa tự vẫn.
Tôi không chối, nhận những ngày lưu lạc ở Texas, những ngày nắng, gió ở Fort Worth, Dallas, (những ngày mà đời sống không hé mở hứa hẹn giữ, dành cho tôi một exit, tạm bợ, một lối thoát (dẫu) tối tăm, nhếch nhác;) thì, Nhím hiện ra, bước tới. Nhím hiện ra, ngang nhiên, quyết liệt trước búa rìu, trước ô nhục, xỉ vả, hăm dọa, hành hung..., không chỉ từ P., mà còn từ M., người con gái sống với tôi, thời đó nữa. Tôi cũng không chối, nhận Nhím là chọn lựa thứ nhất của tôi. Nhím là bãi cỏ nhung êm đềm/ dòng sông quê cha/ đáy vực an nghỉ cuối cùng, tôi muốn được hân hoan ngã xuống. Tôi cũng không chối, nhận Nhím đã thắp được trong tôi ngọn lửa điên dại, xao náo thời mới lớn. Điều tôi vốn đinh ninh đã tàn tro, ngậm ngùi trên tấm lưng tháng, ngày thưa, rỗng, phẳng, nhạt, thếch, thếch tan, bay.
Tôi không chối, nhận rằng, giữa những gặp gỡ, thân thể, thần trí tôi lúc nào cũng hâm hấp cơn sốt. Cơn sốt thèm khát chưa thỏa. Cơn sốt kéo căng dây cung mà, mũi tên dù có buông ra, cũng chẳng biết chốn nào để đến. Phải chăng vì thế, gặp gỡ nào giữa chúng tôi, cũng là những gíp gỡ xiết, ghì; ngấu, nghiến?
Tôi không biết tuyệt vọng thấy trước, có phải là động lực của những cuồng điên kia (?) Hay chính tâm hồn/ tiếng nói / nhan sắc/ thân thể/ giọng cười/ quá khứ/ kỷ niệm của (với) Nhím..., làm thành những đỉnh cao/ vực thẳm, là giải thích đáng tin cậy?
Tôi cũng không biết, khoảng cách không gian có phải là của mồi lửa nỏ, bén cho hơi nóng những vạt than hồng (?) Hay ẩn ức, thiếu thốn, chưa thỏa đã dẫn dắt tôi, thục mạng đuổi theo tới, lao theo?
Giải thích/ trưng dẫn/ phân trần/ nào, lúc này, với tôi, cũng cùng nghĩa biển lận, vô duyên, đáng phỉ nhổ. Khi cuộc tình ta, là lúc, đời sống chấm dứt. Tự thân (cuộc tình, đời sống,) đã là một bất hạnh, đau đớn tận, tận. Nó không cần bất cứ một giải thích, trưng dẫn, phân trần nào khác...
Tôi đã là viên đá trong bàn tay hồ đồ định mệnh ném xuống một mặt biển, không âm vang (dù chỉ một vài chiếc tăm, vĩnh biệt;) giữa khi Nhím nhận được phán quyết cuối cùng. Phán quyết hủy bỏ hôn nhân giữa Nhím và P., từ tòa án đạo.
3.
Người con gái bước ra khỏi bàn. Khoảng cách giữa chỗ cô ngồi và sân khấu là khoảng cách của dăm bước chân. Khoảng cách giữa cô trước/ sau khi cất tiếng hát, là khoảng cách của một chớp mắt. Chỉ trước mọi người, đã là kẻ khác. Đám đông hóa thân cô? Sân khấu cải dạng cô? Tiếng hát biến hình cô? Hay lúc này, cô mới thực là cô? Cô chỉ thực là cô, khi con người khác trong cô, bước ra, cất tiếng?
Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) như thể đang trò chuyện với tóc mình. Như thể, trước mặt cô, không có đám đông/ ánh đèn/ bàn ghế. Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) như những buổi tối, cô với chiếc bóng. Cô với bốn bức tường thù nghịch. Cô với ngày mai hiềm khích. Ngày mai không thỏa hiệp/ hứa hẹn/ ăn nhậu gì tới trái tim, dòng máu đang nhảy đập, luân lưu hào hển trong cô, lúc này. Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) như những lần cô một mình rong ruỗi đường trường. Cô loi choi với tiếng hát, bay, nhảy trên những cuốn sách trong sắc tay và, chân trời bất nhân, phía trước. Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) như không hề thấy ai (ngay bóng tối, chiếc bóng, căn phòng, chân trời bất nhân, những cuốn sách và sự phản trắc của ngày mai...)
Hãy nói về cuộc đời - khi lê không còn nữa - sẽ lấy được những gì (?) về bên kia thế giới - Thụy ơi và tình ơi...
Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) với những thay lời, đổi chữ... Tuồng cô muốn bảo người nhạc sĩ phải viết lại bản nhạc theo như những gì cô hát, mới đúng. Những gì không như cô hát, đều sai siễn, giả trá, thiếu lương thiện (?) Cô hát hồn nhiên, không nhìn, thấy ai. Tiếng hát, tựa không phát đi từ lồng ngực, từ thanh quản. Tiếng hát, tuồng bốc hơi từ chân tóc/ móng tay/ ngón chân/ thịt da/ tất cả những loại tế bào làm thành thịt xương cô.
Đám đông bị những đợt sóng tiếng hát của cô kéo phăng xa khuất bờ bãi. Đám đông bị nhận chìm đáy biển. Đêm tối bị tiếng hát cô bóc tới lớp vỏ trong cùng, phơi trần chiếc lõi lẻ loi, tênh hênh niềm quạnh hiu, đỏ chín nỗi bất lực, tuyệt vọng sáng, gắt. Người con gái cất tiếng hát tự nhiên (hồn nhiên?) như trước đó cô từng cho người đàn ông trung niên cô không thích giống ai và, cô cũng tự biết, chẳng một ai muốn giống cô.
Anh làm chim bói cá - trên cọc nhọn trăm năm - anh tìm đời đánh mất - trong vũng nước cuộc đời - Thụy ơi và tình ơi - Đừng bao giờ em hỏi - vì sao ta yêu nhau - vì sao thân lê nóng - vì sao môi lê lạnh - vì sao tay lê rung - vì sao, chân không vững - vì sao và vì sao? - hãy nói về cuộc đời tình yêu như lưỡi dao - tình yêu như mũi nhọn - êm ái và ngọt ngào - cắt đứt cuộc tình đầu - Thụy bây giờ về đâu?
Càng vào sâu bài hát, tiếng hát (chính tiếng hát, không phải người hát,) càng ném người con gái lên cao, như ném một hơi rượu vào khoảng không. Khoảng không làm thành bởi những mất tích. Càng hát, tiếng hát càng ném đám đông, bàn ghế, đêm tối, máu huyết nhộn nhạo, lòng khát thèm tội lỗi, nỗi rạo rực nhục cảm..., vào khoảng không. Khoảng không mất tích.
4.
Giữa trưa, Fort Worth/Dallas, nắng thủ trong ống tay áo trắng tinh của nó, những lưỡi dao vô hình bén ngót, cắt vụn đường phố, nhà cửa, cây cối, hàng quán, con người thành những miếng khô mỏng; phơi tiếp trên bãi cát lửa. Cuộc chia tay diễn ra trong một ngôi quán nằm trên trục lộ chính. Ba người đàn ông và một người con gái ngồi quanh chiếc bàn vuông. Mặt bàn đá nhiều mầu. Tiếng hát (cũng nhiều mầu) đêm trước đã xích móc (hay chia, lìa) họ thành một khối. Mỗi người, dường thấy mình rõ hơn, trong mắt người đối diện. Liệu họ thấy được gì khác hơn những viên đá chìm sâu dưới mặt biển? Những viên đá bị bàn tay hồ đồ của định mệnh ném xuống, không âm vang, không sủi lên dù chỉ một vài chiếc tăm, vĩnh biệt?
Giữa trưa, Fort Worth/Dallas nắng thủ trong ống tay áo trắng tinh của nó, những lưỡi dao vô hình bén, ngót, cắt vụn đường phố, nhà cửa, cây cối, hàng quán, con người thành những miếng khô mỏng, phơi tiếp trên bãi cát lửa. Cuộc chia tay diễn ra trên chiếc xe của người con gái, dẫn về nơi người đàn ông tạm trú, lấy hành lý.
Người con gái nhắc tới kẻ vắng mặt. Gương mặt người đàn ông đỏ nhừ, co giựt như bị tra tấn bởi quỷ địa ngục.
Cuối cùng, ít ra, cũng có người nhắc tới. Nhắc tới. Nhắc tới. Nhắc tới. Sự nhắc tới như một xác quyết buồn bã, rằng, sẽ chẳng một ai mang được điều gì về bên kia thế giới! Ngay cuộc đời còn chẳng thật; thì, những thành tựu, của cải đạt được nào, có thật?
5.
Cũng không thật, khi đứng với nhau trong phòng khách nhà bạn, người đàn ông hôn người con gái. Anh không ngửi được mùi son nơi môi cô. Có lẽ mùi shampoo nơi những sợi tóc óng mượt hồn nhiên của cô đã lấn át hết mọi mùi vị khác?
Lúc chiếc máy bay đã cất cánh, người đàn ông mới chợt nhận ra, anh thật khiếm nhã. Anh quên không nói lời gì với người con gái. Nếu không là cảm ơn, chí ít, cũng phải là một điều gì, tương tự, như:
Cũng không thật đâu Ngân, kẻ vắng mặt, cuộc đời, thế giới bên kia, những viên đá ném xuống một mặt biển, không âm vang. Không cả vài chiếc tăm tội nghiệp sủi lên, tựa lời vĩnh biệt, hồ đồ nhất.
một vầng trăng đã khuyết
Từ trên cao nhìn xuống, con sông Columbia River chẻ thành phố thành hai phần không đều. Bên cát bồi, nước lấp xấp, lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời được lọc qua biển lá của những khu rừng nguyên đại gồm toàn sồi, sến và lác... Cả một giải nước mênh mang, ánh bạc, như có hàng triệu con cá cơm tràn tới tận bờ cỏ, nhấp nhô, ngóc đầu lên thở. Phần còn lại, nâu thẫm, gập gềnh, chông chênh tựa toàn thể mặt sóng, đã được lát bởi những vỏ cây khô, tróc.
Ph., nói, thượng nguồn của nó là Snack River, phát xuất từ Idaho, chảy ngược lên Washington State, trước khi nhập vào Columbia để đổ ra biển.
“Khúc sông, chỗ chúng ta đang ngồi đây, người ta còn gọi là dòng Willamette River. Mà, đầu nguồn của nó, dường ở tuốt Sacramento lận...”
Tôi không tin lắm khả năng địa lý, nhất là địa lý sông ngòi vùng Tây Bắc này của Ph. Tuy nhiên, giải thích của Ph., cũng khiến tôi cảm thấy gần gũi và, hiểu được phần nào đời sống của dòng sông tuồng có tới hai thượng nguồn khác nhau này.
Có dễ cũng nhờ vậy mà ngọn Mountain Hood (nơi chúng tôi đang ngồi) đã mang lại cho tôi một (hay những) buổi trưa khác. Những buổi trưa bên kia ngọn núi Mountain Hood. Những buổi trưa không có trong ký ức Ph. /Hạnh /tôi.
Tất cả, đã biến mất, cùng với sự biến mất của Phoóng. Một biến mất tất nhiên. Một biến mất thanh thản, nhẹ nhàng như sớm mai, trở lại sân chơi, ta thấy chân trời và mặt đất, đồng mầu, úc núc những mầm cỏ mới. Trong khi trước đó không lâu, chỉ một vài tiếng, hàng nghìn mái đầu, hàng nghìn con người đã tụ lại. Họ đã đến, mang theo trong họ, biết bao hăm hở, hơ hớ mầm thanh niên và nhựa trẻ. Họ đã đi. Và, hẳn nhiên, họ cũng đã mang theo, những mầm xanh, và, những lá nõn. Đó là sự rút đi của những ngọn thủy triều. Sự lụi, tàn tiệm tiến, dần dà, từng chút. Sự vợi, vơi một vụng nước. Sự bốc hơi một đại hồ...
Sân chơi hay cuộc đời; đám đông hay một người; tình yêu hay đời sống xã hội, kết cuộc, rồi cũng thế. Nhưng cuộc chơi, khi chỉ có hai đứa vầy vọc; chỉ có hai, để đứa này trở thành mặt gương soi cho đứa khác; để đứa kia làm thành nước mắt (trên vai,) nụ cười (trên áo,) đứa nọ, thì, chỉ cần một trong hai kẻ, quay lưng, cúi đầu, bước lui, cuộc chơi lập tức chấm dứt.
Sự /chấm dứt đời sống một que diêm/ ngúm tắt một đốm lửa/ lụi tàn một mụn than. (Những hòn than không thể tự đỏ lấy hồn mình. Những đốm lửa không thể tự mồi sáng chính nó. Cũng như những que diêm, chẳng cách gì tự lóe cháy, để soi lấy dáng mình, dù rất muốn.)
Từ trên cao nhìn xuống, con sông Columbia chẻ thành phố, thành hai phần không đều. Bên cát bồi, nước lấp xấp, lóng lánh dưới ánh mặt trời được lọc qua biển lá của những khu rừng nguyên đại gồm toàn sồi, sến và lác... Cả một giải nước mênh mang, ánh bạc, như có hàng triệu con cá cơm tràn tới tận bờ cỏ, nhấp nhô, ngóc đầu lên thở. Phần còn lại, nâu, thẫm, gập gềnh, chông chênh, tựa toàn thể mặt sông đã được lát bằng những vỏ cây khô, tróc. Ph. bảo:
“Đố hai đứa bay, dòng sông đang chảy theo hướng nào. Dĩ nhiên bên tay phải chúng ta là cửa biển. Bên trái là đất liền. Xa lộ Năm, dẫn về Seattle, chúng mày đã biết...”
Tôi nghe đâu đó bên tai / giữa lồng ngực / giữa trái tim / những tiếng chân chạy bạt ngàn của gió. Tiếng chân chạy của sóng rừng đốn cây, tróc núi, trên xa lộ Năm.
Cũng xa lộ Năm. Những đêm trăng, những chiều mưa, tôi chở Phoóng trên chiếc pick up ngược xuôi lộ trình Bắc, Nam San Jose - Los Angeles. Những đường trường bên nhau, dù là cửa kính quay lên hết, những cơn chuyển dạ của rừng, núi; hơi thở dốc của đường xa, tiếng mách bảo của hạnh phúc (và, bất trắc;) giọng thầm thào của hân hoan lén lút (và, đau khổ ân thầm) vẫn không buông tha tôi. Chúng vẫn thúc từng cơn. Chúng vẫn nổi từng hồi còi (báo nguy?) thê thiết.
Xa lộ Năm, những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, tôi không thể đoán biết hướng gió đến. Chúng sẽ đi tới đâu, tan biến trên ngọn đỉnh nào. Những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, chúng tôi cố tránh nói về tương lai. (Như những kẻ đi rừng tránh nói chuyện về cọp, đi đêm tránh nói chuyện về ma, vượt biên tránh nói về cái chết...)
Chúng tôi cùng ngầm hiểu, chúng tôi có tất cả, trừ tương lai. Chúng tôi có, những buổi sáng mở mắt, (trong kinh ngạc nghẹn ngào) thấy nhau. Chúng tôi có, những buổi tối, (dù hiếm hoi) ngồi chung một chiếc bàn, với những món ăn được làm bởi chính bàn tay thơm tho của Phoóng. Chén cơm bốc hơi, được nấu bởi tôi. Chúng tôi có, những khuya khoắt, chia nhau từng hơi thuốc lá và, lau hộ Phoóng, những giọt lệ khi không, bật, ứa.
Chúng tôi cũng có thể có với nhau những chuyến bay lẩn trốn mọi người, tới một nơi toàn người xa lạ. Giữa những nơi chốn và đám người xa lạ kia, chúng tôi mừng rỡ nắm tay nhau, hớn hở hôn nhau (như hai kẻ tình nhân may mắn còn sót lại trên mặt đất.) Chúng tôi hân hoan giới thiệu nhau, như vợ chồng. Như những cặp vợ chồng bình thường, rất mực bình thường...
Nhưng, cách gì, thủy chung, tương lai, vẫn là món hàng xa sỉ, chiếc bong bóng đỏ ngoài tầm tay hai đứa. Chữ tương lai, với chúng tôi, tựa ý niệm mơ hồ về kiếp khác!
Những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, trong yên ắng, tôi ưa tìm đôi mắt Phoóng. Như người thợ săn chăm chắm kiếm tìm đôi mắt con mồi, tôi đi tìm nỗi tuyệt vọng thê thiết (và, thân thiết) đời mình.
Những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, trong yên ắng, Phoóng ưa lùa tay sâu trong cổ /ngực /thân thể/ tôi. Những ngón tay chở tuổi thơ ải, dòn như những mũi thuyền trôi lênh đênh cùng khắp cõi, miền tâm trí tôi bập bềnh nước lớn. Bây giờ, tôi không thể nhớ chính xác, thời gian đó, Phoóng mười bảy hay mười chín. Bây giờ, tôi không thể nhớ chính xác, thời gian đó, tôi đã bốn mươi hay xấp xỉ.
Thật nực cười, nếu ta đặt hết sự tin cậy vào ký ức. Ký ức, đôi khi tựa tính khí bất thường của một người đàn bà trắc nết.
Những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, Phoóng ưa kể tôi nghe ngôi nhà kế bên Chợ Lồng, con sông Ba Xuyên, những chiếc thuyền thúng, mùa nước lụt. Ngôi nhà, Chợ Lồng, con sông, thuyền thúng, mùa nước lụt..., những bạn hữu, nhân chứng ở cùng Phoóng, suốt một tuổi thơ con trai, ngổ ngáo của nàng. Những lúc cao hứng, không dằn được, Phoóng bảo, Phoóng rất muốn có một lần nào đó, đưa tôi về Ba Xuyên. Nơi sanh đẻ của nàng. Nơi của câu đồng dao Ba Xuyên đi dễ khó về - Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu. Khi cơn cao hứng tàn, dịu, Phoóng chợt nhớ: tương lai là món hàng xa sỉ, ngoài tầm tay chúng tôi. Chữ tương lai, với chúng tôi tựa ý niệm mơ hồ về kiếp khác.
Gặp trường hợp này, tôi hay choàng tay qua vai Phoóng. Kéo Phoóng ngã sát vào tôi, rồi vỗ vỗ lên vai nàng (thói quen tôi thường có, những khi muốn dỗ dành Cún ngủ.)
Tôi biết hành động của tôi chỉ thêm khêu, mở mạch nguồn nước mắt Phoóng. Nhưng tôi làm được gì (?!) Bẩm sinh, tôi vốn vụng về, chậm đụt. Tôi cũng hiểu, càng cố tránh né nói về tương lai bao nhiêu, chuyện ấy lại thường bất ngờ, bật ra trong câu chuyện giữa hai đứa bấy nhiêu.
Không biết có phải, đó là phản ứng tự nhiên của những mơ ước bị ý thức ném xuống, nhốt kín trong một xó góc tối tăm nào đó, của tiềm thức. Nhưng sự giam nhốt kia đâu có nghĩa hủy diệt, triệt tiêu được chúng.
Một lần, cũng đường trường, cũng xa lộ Năm, như thế, ngồi giữa chúng tôi là Cún với mùa hè bắt đầu. Thục đồng ý cho Cún có một tuần ở với tôi. Tuần lễ thần tiên của ba đứa. Mùa hè, xa lộ Năm, đỉnh đèo Bakersfield, cánh đồng King County, đoạn đường tắt 152 còn lạnh, mát. Những rừng tóc khuynh diệp mới gội đầu, chưa khô. Những ruộng dâu bạt ngàn, còn chói gắt mầu xanh và, mùi phân hắt... Chúng tôi sống giữa nhau, với nhau, như những kẻ đến từ một hành tinh khác.
Những ngày này, bao lần tôi muốn bảo Phoóng, tôi đồng ý bỏ hết, gia đình, bà con, công việc..., theo Phoóng, bỏ đi biệt tích khỏi nơi này. Chúng ta về Oregon. Chúng ta qua Arizona. Chúng ta tới Utah, Michigan. Nơi nào cũng được. Miễn ít người Việt. Không đám đông. Không tiện nghi cơ khí. Chúng ta sẽ sống lẫn cùng những người làm ruộng, làm rẫy. Không ai dòm ngó ta. Không ai làm phiền ta. Không ai cần biết chúng ta là ai, để có lời ra tiếng vào. Ta được quyền có những đứa con. Được phép nuôi chúng lớn giữa thiên nhiên, giữa trời đất, theo ý mình. “Anh phải tin Phoóng có khả năng làm rẫy, làm ruộng. Anh phải tin Phoóng có khả năng đào ao, thả cá, nuôi heo. Phoóng đã từng. Phoóng tin mình có thể làm được hơn thế. Bởi chẳng thể có một địa ngục nào, tàn khốc, đáy cùng hơn địa ngục vượt biên, địa ngục trại đảo. Vậy mà, Phoóng còn vươn lên được. Vậy mà, Phoóng còn sống sót nổi, xá gì ba chuyện vất vả lẻ tẻ...”
Tôi không trả lời. Điều gì đã giữ tôi lại? Mặc cảm về khoảng cách tuổi tác? Thói quen ù lì? Sợ hãi phiêu lưu? Không biết. Không ai trả lời hộ tôi, những câu hỏi đó. Không một ai ngoài tôi. Mà, tôi bất lực. Mà, tôi, thường xuyên lẩn trốn chúng. Tôi bất lực /lẩn trốn/ nhưng tôi lại không thể buông bỏ Phoóng. Tôi yêu Phoóng. Tôi cần giữ Phoóng cho tôi, như giữ lấy cho riêng mình, niềm hạnh phúc tuyệt vời và, nỗi bất hãnh nhức, buốt.
Hãy cứ lẩn trốn chúng, ngày nào ta còn lẩn trốn được. Tôi vỗ về, an ủi lấy mình.
Những đêm trăng, những chiều mưa, đường trường, như thế, Phoóng ưa nghe tôi kể về tuổi thơ tôi. Phoóng muốn tìm hiểu thế giới tuổi thơ của con giai (để so sánh với thế giới con gái của nàng?) Khốn đỗi, gần như tôi không có tuổi thơ, nếu hiểu tuổi thơ của một đứa con giai là đánh đinh / đánh đáo / đường phố / đánh lộn / nắng khét đầu tóc và thịt da.
Tôi chỉ có thể kể Phoóng nghe, tuổi thơ tôi, có bóng rợp của một bà mẹ. Bóng rợp hiểu theo hai cách: cụ thể, mái tóc bà dầy, rất dầy, dài chấm đất; và, trừu tượng, những khoảng tối âm u của dĩ vãng tang chế, đời bà.
Phoóng rất thích nghe tôi lập lại chi tiết về mái tóc mây, dầy, dài chấm đất của mẹ tôi. Có thể, vì, Phoóng cũng có một mái tóc mây, dầy, dài gần chấm đất như thế. Có thể, vì, trong một chừng mực nào đó, Phoóng thấy nàng gần bà? Hoặc giả, cách nói của tôi, khiến Phoóng nghĩ, trong ghi nhận thầm kín /tôi /dường đã có một liên tưởng tốt đẹp nào đấy, giữa hai người đàn bà này.
Xa hơn, dễ chừng Phoóng muốn là người thay thế mẹ tôi. Phoóng muốn lo cho tôi, không chỉ như những ngày thơ ấu, mà, luôn phần đời dư thừa, sót lại của tôi. Cảm tưởng này, tôi có, sau những lần Phoóng hỏi hai rất tỉ mỉ về những gì tôi có và không thể có được từ mẹ tôi, ngày bà còn sống.
Có thể. Có thể. Có thể. Và, tất cả, chỉ là hai tiếng có thể. Bởi, cuối cùng, chúng tôi xa nhau. Cuối cùng, cuộc chơi đã vắng đi một người. Mỗi chúng tôi, dạt về một phía. Như con sông Columbia, chia đôi thành phố. Như Ph. cho biết, chỉ một con sông mà, tới hai dòng nước chảy.
Từ trên cao nhìn xuống, con sông Columbia chẻ thành phố, thành hai phần không đều. Bên cát bồi, nước lấp xấp, lóng lánh dưới ánh mặt trời được lọc qua biển lá của những khu rừng nguyên đại gồm toàn sồi, sến và lác... Cả một giải nước mênh mang, ánh bạc, như có hàng triệu con cá cơm tràn tới tận bờ cỏ, nhấp nhô, ngóc đầu lên thở. Phần còn lại, nâu, thẫm, gập gềnh, chông chênh, tựa toàn thể mặt sông đã được lát bằng những vỏ cây khô, tróc.
Hạnh bảo, khúc Willamette này làm nhớ tới Phá Tam Giang, những ngày cạn nước. Tôi hiểu Hạnh đang hồi tưởng thời kỳ cuộc tình còn non, ương của hai đứ. Từ Chợ Mai, chúng tôi đưa J. ra cửa Thuận thăm Nguyễn.
Thời điểm này, có thể Phoóng chưa ra đời, chưa tượng hình? Phoóng còn đâu đó trong cõi âm u nơi tầng trên trần thế. Thời điểm này, có thể Phoóng còn nằm nôi? Có thể Phoóng còn mặc quần thủng đít. Nàng còn khóc lè nhè mỗi sớm mai? Nàng còn đái dầm mỗi đêm... Nàng còn, còn, còn, còn, còn... Ký ức như tính khí bất thường của một người đàn bà trắc nết. Nó không cho tôi những chi tiết chính xác về sự chia tay giữa hai đứa. Chỉ nhớ, lúc hình dung Phoóng một mình, trở về ngôi nhà dưới tàng hoa muồng, với vầng trăng khuyết như nỗi buồn có tới hai đầu (tựa hai mũi nhọn) sẵn sàng làm chảy những giọt máu tuyệt vọng. Những giọt máu hân hoan / và / đau đớn / hạnh phúc / và / kinh hoàng đã chảy trên chiếc ghế nâu trải thẳng thành chiếc nệm nhỏ, trên mặt sàn gỗ, một đêm, khi cả hai, không còn kìm giữ nổi chính mình.
Chỉ nhớ những đêm thình lình thức giấc, giữa những nơi chốn, trong những căn phòng, trên những chiếc giường còn gắt nồng hơi hướm nhau, bây giờ, một mình tôi trơ trọi. Một mình tôi châng lâng, hiu quạnh, tôi hiểu, cách gì, thì, cuộc chơi rồi cũng sẽ chấm dứt.
Sự /chấm dứt đời sống một que diêm/ ngúm tắt một đốm lửa/ lụi tàn một mụn than. (Những hòn than không thể tự đỏ lấy hồn mình. Những đốm lửa không thể tự mồi sáng chính nó. Cũng như những que diêm, chẳng cách gì tự lóe cháy, để soi lấy dáng mình, dù rất muốn.)
Tất cả đã biến mất cùng với sự biến mất của Phoóng.
Sự biến mất đương nhiên. Một biến mất thanh thản, nhẹ nhàng như sớm mai, ta trở lại sân chơi, thấy chân trời và mặt đất đồng mầu, úc núc những mầm cỏ, mới. Nhưng, chẳng đương nhiên nào làm loãng tan trong ta nỗi đau đớn hay niềm tuyệt vọng. Chẳng đương nhiên nào, đốn ngã hộ ta những rừng cây ích kỷ hờn, ghen; những tàng rộng thói quen nhớ, thương và, thói quen sở hữu, bồng bồng vạm vỡ, lớn. Trong tuyệt vọng, oán hờn (vô lối,) tôi viết xuống:
trăng khuyết như đời tôi
cũng thôi một kiếp người
em về, khuya có vui
đầy hồn tôi mưa bụi
tôi về, khuya thiếu... tôi
nhớ người môi tháng tám
gió ngất, như lòng tôi
chiều thu, im tiếng rồi
những ngón tay mồ côi
đường ngôi không tiếng gọi
em còn trong cõi tôi
thoảng mùi hương tháng chín
nắng xót như biển khơi
đường xa hút bóng người
nỗi buồn nào có đôi?
sao chiều tôi khép vội
tóc buồn rơi xuống vai
em nghìn năm mây, khói
tôi đã khóc đêm qua
như đứa trẻ nhớ nhà
em ở đâu đêm qua?
quê-nhà-tôi, mất dấu
tôi ở đây đêm qua
mênh mông hồn nghĩa địa
trăng khuyết như tình tôi
còn nhau không cuối đời
em, một trời gió nổi
tôi, một trời mưa thôi
mắt người đêm tháng chạp
đắp buồn áo quan tôi
áo người mưa tháng tám
gói hồn tôi khôn vui
kịp về không hỡi bé?
vầng trăng ta khuyết rồi.
Cũng mười lăm năm rồi, kể từ ngày tôi viết bài thơ ấy. Kể từ một đêm, bất ngờ, V.Dzũng ôm đàn hát Trăng Khuyết, lần thứ nhất. Lần thứ nhất, trăng khuyết, cùng những giọt lệ khuyết, lăn khỏi đôi mắt Dzũng trẻ thơ, trong sáng; tới bây giờ, vẫn còn là những lằn roi nắng, mưa nổi cộm, đỏ rần thần trí tôi. Em về khuya có vui - đầy hồn tôi mưa bụi. Dzũng hát. Tôi hiểu, câu hỏi em về khuya có vui, chung cho cả hai anh em chúng tôi. Nhưng trong ký ức / hình dung / tưởng tượng/..., của mỗi người, lại bật âm những vang vọng khác.
Ở Dzũng, có thể là nỗi đau đớn tơi bông trong hình dung về A. Tưởng tượng A. trong vòng tay kẻ khác (?) Em về khuya có vui, ở tôi, là hình ảnh Phoóng thất lạc trong chiếc xe lóc cóc trên khúc đường Katella / Euclid, giữa khuya khoắt với mái tóc suối mây đã cắt cụt mà, hy vọng không vì thế mọc dài. Ở tôi, em về khuya có vui, chỉ là câu hỏi / lời chúc gượng cho một chia tay, đúng hơn, một chia, lìa, biệt, biệt. Chia, lìa thấy trước, như Phoóng nói. Chia, lìa như Phoóng đã linh cảm, thật mạnh mẽ, thật sắc, buốt giữa lúc nàng leo lên chiếc bàn, chờ bỏ đi đứa con. (Đứa con Phoóng hằng khát khao, sôi nổi tính toán giữ lại, dù tôi có ngoảnh mặt.)
Đêm nay, ngồi giữa Porland, giữa tình thân của Hưởng, Vinh, Phố, Nhớ, Rừng, Đông, Lang, Hàm, Lan..., giữa Oregon, Tháng Bảy; giữa tiếng ngâm thơ theo điệu hò Huế của Lê Quang Vinh; giữa hàng trăm giọng nói, tiếng cười; giữa tiếng hát Khánh Vân lấp lánh quý kim... Hình ảnh Dzũng lẻ loi, hiu quạnh, nhắm mắt, cúi đầu trên những nốt nhạc như những giọt lệ (cũng lẻ loi, hiu quạnh) gập gềnh, chông chênh, chẻ tôi thành những phần không đều; phân bố tôi thành những miểng, vụn rơi, trôi.
Hình ảnh Dzũng Trăng Khuyết, hình ảnh Phoóng, H.A., những con sông (nhiều phần không là con sông Willamette của Ph.;) hình ảnh những cánh rừng (nhiều phần không là rừng nguyên đại gồm toàn sồi, sến và lác...,) nhấp nhô, lấp xấp vùi, chôn tôi sâu trong những niềm bí mật mà, mỗi người, theo cách riêng, đã nín, lặng, mang đi.
Tôi rất vui, khi biết H.A. trở thành người bạn đời của Dzũng. Tôi cũng rất vui, khi biết Phoóng đã lập gia đình, đã có con. Nàng đã chọn một người đàn ông ngoại quốc. Người đàn ông, như Phoóng kể, có thể chia sẻ với Phoóng bất cứ điều gì; trừ vầng trăng nơi trái tim nàng, sớm khuyết! Trừ nắng, mưa trong tâm hồn nàng đã ngày, đêm mộ địa.
Đêm nay, ngồi giữa Portland, giữa tiếng hát bằng hữu cất lên, giữa trời đất mênh mang tạo lập trong những bài thơ, từ những giọng ngâm, đọc thân yêu. Đêm nay, ngồi giữa Phá Tam Giang của Hạnh đã cạn (cho một Phá Tam Giang khác, lênh láng nước ròng...) tôi chợt hiểu, (luôn luôn,) mỗi cuộc đời đều không chỉ có một con sống; mà, còn có cho riêng nó, chí ít, cũng một vầng trăng, rất khuyết.
Con sông và, vầng trăng khuyết, tật kia, không nhất thiết phải hiện hữu trên một mặt phẳng địa lý, một thổ ngơi, có thực. Bởi vì, đó là những con sông và, những vầng trăng khuyết, tật ta, riêng.
Đêm nay, ngồi giữa Oregon, giữa tiếng vỗ tay (những đợt sóng xô, táp ghềnh đá,) khi người ca sĩ bước xuống, tôi quay lại Ph., buột miệng:
“Trăng khuyết.”
Ph., hỏi:
“Mày nói gì?”
Tôi nhìn về phía cửa ra vào:
“Có người vừa bỏ đi.”
“Ai vậy?”
Tôi nói, không.
“Họ mời mày lên sân khấu đấy/”
Phần trình diễn của Ph., nổi bật nhất. Nhiều người nín thở, nuốt ực từng nốt nhạc. Có người rưng rưng, muốn khóc. Tiếng bis đuổi theo Ph., về tận ghế ngồi. Riêng tôi, tìm mãi, vẫn không thấy một con sông hay vầng trăng khuyết, tật nào (của tôi,) quá giang nơi tiếng hát Ph.
DU TỬ LÊ
tiếng kêu nào / bên kia thời tiết
1.
Tôi cố gắng để không biểu lộ một cảm xúc nào khi nói chuyện với D. qua điện thoại. Những hồi chuông ngân, reo, lục cục trong giọng nói của D., khiến tôi thấy mình như có tội. Một người có lỗi không chỉ với D. mà với ít nhất, hai người vắng mặt. Tôi hỏi D. có thể cho tôi đi Indiapolis? D. nói được chứ. “Bất cứ lúc nào anh muốn. Khoảng cách giữa Chicago và Indiapolis, trên dưới hai trăm miles. Với một chiếc xe tốt và thời tiết không xấu quá, chúng ta sẽ mất khoảng từ ba tới ba tiếng rưỡi...” D. kể líu lo, nhập nhoạng về đường đi, phong cảnh, cư dân của Indiana, những người bạn cùng, đặc điểm của vùng đất ấy.
Tựa một người bị cấm khẩu đã lâu, đột nhiên có lại tiếng nói, D. nói huyên thuyên, không thở. D. cũng không hỏi tôi, lý do muốn tới thành phố kia. Cuối cùng, D. mới nhớ ra rằng D. không thể đến đón tôi tại nhà Nguyễn.
“Chúng ta không thể có riêng với nhau một buổi nào sao?” D. hỏi.
“Anh tới đây một phần cũng chỉ vì D. ở thành phố này mà,” tôi nghe dối trá gõ binh bong đầu mình.
“Sáng mai, tám giờ đúng, anh đợi D. ở ngã tư Broadway và đường số 11,” tôi lấp liếm.
Từ ngày biết tin D. lập gia đình với một người ngoại quốc, hình ảnh D. gần như chết hẳn trong tôi. Thản hoặc, kỷ niệm cũ, những ngày tháng được dệt, thêu một cách hấp tấp, ngớ ngẩn bằng những lá thư, những cuộc trò chuyện qua điện thoại, kéo dài cả tiếng đồng hồ..., như những tăm nước hồ đồ sủi lên, tôi lại xấu hổ với những trang giấy (có thể đã không còn, ngay trong ký ức D.) Thản hoặc, kỷ niệm cũ, những ngày tháng được làm đầy bằng những hẹn hò, chiêm ngưỡng từng ngón tay, nâng niu từng sợi tóc, thưởng thức từng nốt tàn nhang trên thân thể D., như những tăm nước hồ đồ sủi lên, tôi lại ngượng, thẹn với chính mình. Phải tôi có một thời gian với D., như thế? Phải tôi từng ước mơ gập ghềnh, vẽ vời một tương lai khập khễnh lãng mạn với D? Phải tôi từng quả quyết, nếu mất D., chắc tôi không sống nổi? Phải tôi đã lý tưởng hóa D.? Cho tới khi nghe tin D. lấy chồng người ngoại quốc, tôi mới thấy tôi tồng ngồng nỗi trơ trẽn?
Mỗi chúng ta đều có chí ít, một nạn nhân trong tâm tưởng của riêng mình.
Tôi biết giờ phút này Thuyền đang làm gì ở Cali. Trong ký ức Thuyền, không hề có D. Tôi nhớ dường chưa bao giờ tôi đề cập về D., với Thuyền. Tôi cũng không hề bảo Thuyền, Chicago rất gần với Indianapolis, thành phố tôi đã tới và ở lại cách đây hai mươi bảy năm. Hai mươi bảy năm trước, một thời tuổi trẻ tôi.
2.
Đó là thời Donna mới học lớp mười. Thời của những cánh rừng phong, mùa thu bạt ngàn, cháy đỏ. Thời của những ngày Thứ Bảy, mùa thu, Donna dắt tôi đi giữa những cánh đồng lúa mì đã gặt xong. Cây xuân tràng ngơ ngác ở lại, được chúng tôi dùng làm nơi dừng chân cho những chiếc hôn rộp môi, những vòng ôm cập rập và, cũng là điểm định hướng trở về.
Những ngày Chúa Nhật, mùa thu, sau khóa lễ sáng, cùng Janna, Donna tới tìm tôi nơi khu cư xá dành cho sĩ quan độc thân, trong khuôn viên Fort Harrison. Donna bảo tôi đưa cho nàng mười đồng, để nàng trả công babysit cho Janna. Đó là một hình thức undertable (chữ của Donna) cho Janna vì nàng đã xin phép bố mẹ Donna cho Donna được ra khỏi nhà. Dạo đó, với mười đồng, Janna có thể lang thang cả ngày trong basement, tầng dưới cùng, bán đồ phụ nữ, khu thương mại thiết lập ngay trong căn cứ.
Mùa thu dưới những tàng phong rộng như những chiếc mái khổng lồ, Donna giải thích cho tôi hiểu về sự đổi mầu của chúng. Mùa thu, lời thú nhận chân thật, ngây thơ của Donna về những thử nghiệm lần thứ nhất với một người đàn ông. Donna bảo, nếu không gặp tôi, chưa biết bao giờ Donna mới hiểu thế nào là những nụ hôn; những bàn tay mang cảm giác nhột nhạt lạ lẫm đi trên da thịt. Những rung động thiêu đốt kỳ lạ ẩn, nấp đâu đó dai dẳng, lì lợm khó hiểu khắp thân thể nàng...
Mùa thu, khi những cây phong bắt đầu đổi mầu cũng là lúc gia đình Donna miễn cưỡng chấp nhận tôi, như chấp nhận một tai nạn đã rồi. Tôi nhớ, sau bữa cơm chiều, lúc đưa tôi ra ngồi nơi chiếc bàn nhựa kê nơi chiếc deck làm thêm ra phía sân sau, dưới tàng rộng của những cành cây du, ông Jack Kearny hỏi tôi có biết tôi là người đàn đầu tiên mà Donna quen biết? Tôi nói có. Donna có kể. Đó cũng là điều làm tôi áy náy. Tôi cho ông biết, tôi còn biết nhiều chuyện nữa. Chẳng hạn, tôi biết ông từng là cựu sĩ quan không quân. Ông có bằng cao học về môn chính trị học; giảng viên khóa học trung cấp về báo chí. Tôi nói, tôi còn biết Barbara, vợ ông, làm phụ tá Quản Thủ Thư Viện trong căn cứ này; và thêm:
“Tôi cũng biết, người bạn thân nhất của gia đình ông là Father Smith. Tôi mong, có dịp được gặp ông ta.”
Nghe tôi kể, ông Kearny có vẻ hài lòng. Có thể đó là những điều ông cũng muốn tôi biết về cuộc đời của ông (tối thiểu, nó cũng tốt hơn những điều khác?)
“Chúng tôi chỉ muốn nói cho Lang biết, chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ một điều gì trong khả năng của chúng tôi, khi Lang cần. Chỉ yêu cầu Lang nhớ là chúng tôi tin cậy nơi Lang và, nhắc nhở Lang rằng, Donna nó mới mười lăm tuổi. Nó còn quá nhỏ để có thể tự lo liệu hay mang vác những chuyện bất trắc, to lớn xẩy đến...”
Qua những lui, tới này, tôi biết thêm Donna có một người anh, nhỏ hơn tôi vài tuổi, tên Tom. Xong trung học, Tom tình nguyện đi lính Thủy Quân Lục Chiến, đang đóng ở Đà Nẵng. Không dưới một lần, Barbara cho tôi biết, mỗi khi thấy tôi, bà lại nhớ Tom. Bà bảo, Tom cũng nhỏ bé, cũng yếu đuối/ rụt rè/ hay mắc cở như tôi. Bà bảo:
“Tôi không thể hiểu nổi một thanh niên rụt rè, hay xấu hổ lại có thể sống được giữa một tập thể mà, như tôi biết, chỉ có kỷ luật cùng những khuôn mặt lúc nào cũng giận dữ một cách... vô cớ.”
Bà hỏi, phải đó là phản ứng tự nhiên của những người như Tom, như tôi, khi muốn cho thấy điều ngược lại? Tôi đáp, tôi không biết. Có thể tôi cũng trong trường hợp đó? Tôi nói, “thật may mắn cho Tom, có được người mẹ, như bà.”
3.
Tôi bị giựt ra khỏi giấc ngủ, không biết vì tiếng chuông điện thoại hay vì tiếng gió hú qua những cửa thông hơi của căn hầm basement này. Ngọn đèn vẫn mở trên bàn viết. Quanh tôi, ngoài tiếng hú đứt đoạn đâu đó của gió, là khối yên lặng nặng, cứng. Tôi nghe được tiếng nước róc rách nơi chiếc hồ cá kê ngoài phòng khách. Tiếng nói chuyện rì rầm từ nhà trên vọng xuống. Tôi bắt được tiếng cười hồn nhiên của Dzĩnh. Giọng nói nhanh, mạnh mẽ, chữ nọ hấp tấp xô, xấp ngã chữ kia của Hà. Nhiệt tình nơi Hà đầy ắp tới độ lúc nào cũng chỉ chực chờ đổ, trào ra, tuôn chạy. Nhìn đồng hồ, tôi biết tôi chỉ có đủ thì giờ đi bộ tới góc Broadway và đường số 11. Tôi không thể hình dung D., sau bao năm không gặp, nhưng chắc chắn sẽ nhận ra D., khi giáp mặt.
Những ngày nắng, gió ở Houston, những chiều mưa bất ngờ ở New Orleans, những đêm dạo chơi với nhau dọc theo bờ sông của khu French Square, những trưa thả bộ trong khu chợ lộ thiên ở quê hương nhạc Jazz kia, dù sao cũng là phần đời có nhiều mầu nóng và nhiều mùi hương gắt, chói nhất, tôi nghĩ, trong lúc thay quần áo.
Ký ức chúng tôi ngộp sâu trong những ngày úng thủy ở căn nhà của Khánh và Phúc “Nẫu”. Căn nhà có con đường dẫn xuống con lạch, chiếc cầu gỗ nhô trên một bè rau muống còi cọc. Những ngày mưa, Khánh, Phúc vẫn phải ra tiệm. Anh giao ngôi nhà cho tôi. Ở ngôi nhà này, chính tại ngôi nhà đó, trên chuyến bay trở về Los Angeles, D. bảo, có thể D. có con. D. nói, linh cảm người đàn bà rất ít lầm lẫn.
“Tuy nhiên, anh đừng lo. D. sẽ tự lo liệu lấy một mình.”
Tôi nói, không. Tôi không hề lo lắng. Không gì cả. Hơn nữa, đó cũng là mơ ước của chúng ta kia mà... Mơ ước của chúng ta? Một lời nói (dối?) Một cách trấn an D., và, trước nhất, trấn an chính tôi? Mơ ước của chúng ta? Tôi không biết D. tin được bao nhiêu phần trăm nơi sự quả quyết hàm hỗn này. Có thể, chẳng phần trăm nào. Nhưng tôi nhớ, in là, tôi đã gửi khá nhiều chân thật trong câu nói đó. Vậy mà, tôi bẵng quên. Tôi quên bẵng, như thể chưa hề, trong đời, một lần, đã nói với D., (và ai nữa?) điều tương tự.
Theo lời Hồ Điền, bây giờ, ngôi nhà của Khánh và Phúc “Nẫu” đã thuộc về kẻ khác. Khánh về Orlando. Phúc Nẫu chết bí mật trong giấc ngủ đầu ngày... Thời gian đã xóa sạch mọi vết tích. Xóa sạch, luôn cả con người!
4.
Đường phố Chicago buổi sáng bị phỏng, rộp lên bởi hơi lạnh do những cơn lốc ác độc phả tơi. Tiếng gió rú, rít giận dữ dường không chỉ ném xuống tự trời cao mà, chúng còn được phóng ra từ những con hẻm làm thành bởi những vách tường xù xì, chia cách những ngôi nhà như những ngôi mộ cổ, nổi cộm giữa nền trời cạn, kiệt máu huyết. Những gốc phong già, những thân cây du và luôn cả những chiếc xe liều lĩnh xông ra đường phố, tuồng đã cố gắng hết sức dán mình xuống đất mà, bất trắc vẫn chưa chịu buông tha. Tôi tự nhũ, đừng ngạc nhiên, nếu thình lình thấy mình bị nhấc bổng lên cao và bị thả bay như chiếc lá. Bây giờ tôi hiểu, thực sự hiểu lời cảnh cáo của Tú, đêm qua khi anh nói với Long và Nhơn, ăn thua gì tuyết ở Minnesota. Ăn thua gì những tảng băng. Người ta có thể đi xe, cấm trại trên mặt vạn hồ kia mà...
Đường phố Chicago mặc khoác lớp da xám ngoét của người bệnh kiệt máu và, những trận gió buốt thổi qua những cành cây trơ xương như những ống nylon truyền nước biển ngang dọc cùng khắp thân thể một người bệnh chờ chết. Bầu trời thấp tưởng có thể xụp xuống bất cứ lúc nào. Những mái nhà tro trộn trấu cũng co quắp như những chiếc xe và những người bộ hành lùn, rúm lại mỗi khi có chill wind. Tôi đến ngã tư, vừa lúc chiếc xe của D., cũng trờ tới. D. thắng gấp. Và vẫy. Vẫy. Những móng tay sơn đỏ như những đuôi cờ làm bằng vải nhựa vẫy, vãy trong niềm hân hoan muộn màng, lạc điệu.
Trái với suy nghĩ của tôi, D. trẻ, nuột tựa phần bên trong của một thân chuối mà người ta vừa tước đi bẹ lá. Trong tôi thoáng chút thất vọng, hờn ghen; và, cùng lúc ít nhiều ham muốn tước đoạt lại. Tuồng nếu thấy D. xơ xác, tiều tụy, chắc tôi sẽ thương hơn, hài lòng hơn, và biết đâu chừng, chẳng vì thế mà tôi sẽ quên đi những thất vọng vô lối? Tôi a tới cùng lúc D. mở cửa xe. Bước xuống.
Chúng tôi ôm nhau, tủi mừng, như những ngày cuộc tình mới chớm. Những ngày D. trốn nhà, những giờ D. trốn học, tìm tôi nơi chỗ làm. Những ngày gió, rất thấp và mây, cũng rất thấp. Những ngày thân thể đứa này là ham muốn thiêu đốt trong khao khát của đứa kia, những ngày, rất xưa. Kịp khi nhận biết mùi da thịt từ D., không giống mùi da thịt ngày nào thì, D., đã buông tôi ra. D. hối hả bảo tôi lên xe.
“Thôi anh. Để lát nữa. Kẻo chúng ta biến thành hai thằng người tuyết mất anh ạ.”
Thôi anh! Thôi anh! Thôi anh!... Ký ức tôi lung linh những chùm hoa chuông, lắc, reo điệu nhạc quen thuộc, cũ. Thôi anh! Thôi anh! Thôi anh!... Chuyện gì kìa? Cánh cửa nào (phải rồi cánh cửa nào,) vừa bật mở trong tôi? Hồi chuông. Cánh cửa. Con đường. Nắng và gió. Mưa bóng mây. Ký ức và, sự phản bội. Tôi vẫn chưa ra khỏi ảnh hưởng của mùi hơi D. Mùi khát thèm lạ lẫm lay lất choáng váng. Cảm giác thân thể D. đẫy đà, vòng tay ôm của tôi khó khăn hơn. Cảm giác sức nặng của thân thể D., có phần gia tăng. Cảm giác nơi D., mức độ cuồng nhiệt cũng đổi khác. Nó âm, âm nung, nấu. Nó đầm, đầm sôi, réo. Nó tiến đánh. Nó xô tôi ngã dấp dúi.
Cảm giác hay tưởng tượng? Tưởng tượng hay ảo tưởng? Không biết. Chưa kịp đóng cửa xe, (không biết khởi đi từ đứa nào, có thể cả hai), tôi chỉ còn thấy tôi lềnh, bềnh trôi trên lưng những đợt chill wind. Con gió cắt sâu, chạm tới, rồi cạo buốt những ống xương cùng khắp thân thể tôi, đã ném vùi tôi xuống một vực sâu không đáy.
Tôi thấy, gió thả tôi rơi trong một khoảng chân không. Tôi thấy, gió nhồi xóc tôi trên những lượng sóng đẩy, xô gấp, gấp. Tôi thấy, gió gọi tên tôi. Gió, vẽ lại trong khoảng khắc mơ hồ cảnh tượng một quãng đời tôi, đã khuất.
Tôi thấy, gió gọi tên D. Gió lập lại tiếng thì thào, lời kêu cứu hạnh phúc tuyệt vọng của D., những buổi trưa trong ngôi khách sạn, trên trục lộ Pacific Coast Highway. Con đường chạy xuyên, xâu chuỗi ba bốn thành phố. Tôi thấy, gió bỗng trở thành những hồi còi xe lúc đầu còn rụt rè, sau trở nên mạnh bạo rồi, giận dữ. D., đẩy tôi ra, (cũng hốt hoảng như lúc ôm tôi.)
“Thôi chết, D. phải di chuyển xe. Em phải đi cho xe khác có đường chạy.”
Tôi ngả lưng vào thành ghế. Gió hú qua những khe hở. Thành phố hú qua những khe hở. Chicago hú qua những khe hở. Chiếc xe rùng mình. Tôi cũng rùng mình tìm thế, mang theo tôi; mang theo nó, thân thể một người bệnh kiệt máu, truy hoan.
5.
Mùa thu. Indianapolis, 1969, khi những rừng phong bắt đầu cho cảnh vật cái màu vàng ong mật, như suối reo lưng chừng trời. Khi những người trại chủ kỷ niệm năm mươi năm thành lập hội Nông Nghiệp miền Indiana. Mùa thu, Indianapolis, buổi chiều, sương mù tung chiếc lưới bát ngát mầu tro, khói, đánh một mẻ lưới bất ngờ hốt hết đám nhân loại loi nhoi, lúc nhúc như những con sâu nhơ bẩn, lút chút trên mặt đất.
Mùa thu, Indianapolis, khi cuộc hòa nhạc cho quan khách và, gia đình hội viên tham dự ngày hội, do Ban Nhạc của Khu Học Chánh Indianapolis phụ trách, chấm dứt. Các sĩ quan ngoại quốc rời khán đài, được mời lên xe, chuẩn bị về lại trường. Khi Donna ôm chiếc violin cùng bạn chạy như bay lại chiếc bus đậu ngoài vòng rào vải đỏ. Thiếu tá C., xuống xe, đến trước mặt Donna, tự giới thiệu, hỏi có phải Donna kiếm ông? Donna lắc đầu. Chúng tôi tìm thấy nhau sau lớp kính xe đã bị tráng một lớp nước mỏng và, sương mù, từ dưới thấp ăn lên, đã ăn mất một phần chân Donna.
Mùa thu, Indianapolis, khi Donna ôm ghì chiếc đàn vào ngực, kiễng đôi chân non như muốn nhón cao khỏi lớp sương mù, xoa xoa những ngón tay ửng hồng lên mặt cửa kính. Cạnh tranh với tiếng xe nổ, tranh chấp với tiếng gió hú trên những cánh đồng chỉ còn nguyên gốc rạ mới, Donna gào lớn where’re you come from?... Gió tàn nhẫn giựt, ném tiếng nói của Donna, về đuôi xe. Tuồng những ngón tay muối sương, giá của Donna đã và vẫn còn tiếp tục xoa trên mặt tôi. Tôi tê liệt. Không biết ai đó, một người nào, ngồi cùng hàng ghế (sau lưng, trước mặt, bên phải, dưới đất) nhắc nhở, open the door! Open the door! Mở cửa ra. Mở cửa ra...!
Tôi mê sảng xô cánh cửa kính xe về một phía. Tôi la hoảng trong khoảng không gian đẫm sương mù. Tôi hét lớn như một phản ứng tự nhiên, mỗi khi bị bạn thầy trong lớp hỏi, I come from Vietnam. I come from Vietnam. From Vietnam... Tiếng nói (hay tiếng hét) của tôi cũng bị gió tàn nhẫn giựt, ném đi rất xa. Có thể nó chạm tới những gốc rạ, cọng rác người ta dẫm, đạp đâu đó trong những thửa ruộng phía xa.
Mùa thu, Indianapolis. Rừng phong đã đánh mất những dòng suối ong mật trong lớp sương mù dầy đặc. Chúng chỉ còn giữ lại được tiếng reo thì thào, mỗi lúc một thêm thần bí hơn giữa bao tiếng động tạp. Đó là lúc chúng tôi tìm thấy nhau. Chúng tôi đã nhận ra, trong một chớp nhoáng kỳ diệu nào đó của thượng đế nấp ẩn sâu kín trong góc trái ngực tôi. Tôi hiểu tôi đã thuộc về Donna và ngược lại; dù tôi không thể trả lời câu hỏi của Donna, what’s your name. Your name...
Mùa thu, Indianapolis. Buổi chiều sương mù nuốt chửng tất cả những gì nằm trong tấm lưới bạo tàn của nó. Gió thúc bách. Tiếng động cơ thúc bách. Chiếc bus dợm chuyển bánh. What’s your name? Your name? Your name. Những hồi còi thúc bách. Xe chuyển bánh. Donna chuyển động. Tôi cũng chuyển động (trong chiếc lồng sắt). Đu người vào thành xe, Donna ném (hay gió, hay sương mù ném?) vào lòng tôi miếng giấy. Name. Name. Phone. Phone. Phone... Tôi hiểu. Tôi hiểu. Tôi hiểu. Tôi hiểu xe lăn bánh. Tôi hiểu tôi đã quay người nhìn lại. Sau lưng tôi, những đợt khói trắng/ dầy/ cục mịch/ nặng hơn (?) cuộn, cuộn ném đi từ phía đuôi chiếc bus.
Tôi hiểu, tôi thấy rõ buổi chiều đã bỏ lại Donna, với cây đàn violin, với sương mù đã ăn ngang tới lưng, đám bạn đã tản mát. Donna ngơ ngác nhìn theo. Cái ngơ ngác của con bê con, mất mẹ. Tôi hiểu, tôi sẽ không thể quên những dòng nước chảy ngoằn ngoèo trên kính xe. Những dòng nước bị gió tẽ, chia thành nhiều chân, như được dẫn dụ bởi những ngón tay vô hình, nhỏ xíu. Những dòng nước ngoằn ngoèo, nhòe nhoẹt còn đó, mãi còn đó, dù những ngón tay Donna xoa lên, đã biến mất. Tôi hiểu, tôi sẽ không thể quên những lọn tóc vàng-lá phong, bị sương dính bệt trên vầng trán indiana, che lấp một phần đôi mắt xanh, to, mở lớn bao nỗi niềm phấn, kích.
Tôi hiểu, Hội Mùa Thu đã bế mạc. Ngày mai, sân khấu, khán đài sẽ được dẹp bỏ. Sẽ chẳng có một ban nhạc nào tới chơi trên khoảng đất trống kia. Sẽ chẳng có trại chủ, quan khách, diễn văn, dân chúng, hồi pháo tay nào khua rộn buổi chiều, sương mù, rừng cây, gốc rạ. Nhưng, tôi cũng hiểu, trong tôi, sẽ có Hội Mùa Thu khác, bắt đầu. Một hội thu chỉ có tôi, Donna, lá phong và tiếng gió, hú trên những dòng suối khô, vàng reo, thần bí.
6.
Mùa đông. Indianapolis. Tôi biết, thời tiết không chỉ mặc cho rừng phong chiếc áo mới, lợp mái trắng cho các ngôi nhà xám; nó còn phóng tay phung phí rải lớp sơn dầy, trắng, sốp như bông gòn lên đường đi, lên cảnh vật. Những đêm thình lình tỉnh dậy, ngó ra ngoài cửa sổ, nếu không có đồng hồ, tôi sẽ không thể biết, đêm còn ở với tôi, hay ban mai đã mở mắt. Mùa đông. Indianapolis. 1969. Tôi biết, thời tiết không chỉ cho tôi những tấm gương ánh bạc khắp nơi; nó còn cho tôi mầu sắc và âm thanh nữa. Những ngôi nhà của những nhân viên cơ hữu trong căn cứ đã bắt đầu gắn lên cánh cửa của họ, những vòng nguyệt quế; kéo những sợi dây đèn mầu qua những hang đá, cột cổ những con nai, những chiếc xe chở ông già Noel; cùng những thiên thần mang đôi cánh canh chừng giấc ngủ Chúa Hài Đồng trong hang đá. Donna bảo tôi, Giáng Sinh là mùa lễ quan trọng nhất của người Mỹ. Nó quan trọng hơn ngày đầu năm dương lịch. Với người Mỹ, Noel là mùa của sum họp và những ước nguyện tốt lành cho người thân, cho chính mình.
“Nhưng với chúng ta,” Donna nói, “lại là mùa ly, biệt.”
Tôi giải thích cho Donna biết, tôi rất muốn ở lại qua Noel. Nhưng lịch trình do nhà trường sắp xếp. Tôi kể, nhà trường đã mua sẵn vé greyhound cho tôi, đi từ Indianapolis về tới trạm chính ở San Francisco. Từ đó, tôi sẽ đổi xe để tới Căn cứ và, cũng là phi trường quân sự Travis. Tôi phải trình diện ở nơi này, để nhận vé trở về Saigòn. Tôi nhấn mạnh:
“Donna đừng quên tôi bị chi phối bởi nhà trường. Tôi không có tiền và, cũng không biết phải làm gì, nếu không có nhà trường lo cho tất cả mọi thủ tục cần thiết đó.”
Nếu ông Kearney nghe được điều tôi nói với Donna, ông sẽ biết ngay, đó là những lời nói láo. Bằng cớ, hai tuần trước khi khóa học chấm dứt, ông bà đã hỏi tôi có chương trình đặc biệt nào cho những ngày nghỉ không? Ông Kearney còn hé mở xa gần cho tôi thấy, ông có thể cho tôi đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn, vùng Baltimore, hoặc New York.
“Nếu đi New York, chúng ta sẽ tạt qua Montreal. Tôi có thể giúp Lang một tay,” ông Kearney nói. “Luôn cả phần nào đó phí tổn, nếu Lang không có đủ tiền cho chuyến đi kia.”
Tôi biết những địa danh mà ông Kearney đề cập tới đều là những chốn nổi tiếng. Nhiều người Mỹ sinh trưởng ở nơi khác, có khi tới lúc chết, còn mang theo mơ ước viếng thăm những địa danh kia vào lòng đất. Nhưng tôi điếc căm ham muốn ấy. Với tôi là Saigòn. (Dù Saigòn theo mô tả của Thượng nghị sĩ Mansfield là một ổ điếm vĩ đại. Tôi suýt bị gửi trả về nước chỉ vì khi bàn cãi thời sự này trong lớp, tôi là người Việt Nam duy nhất đứng dậy phản đối. Tôi nói, có thể Thượng nghị sĩ Mansfield đúng nhưng chỉ đúng phần ngọn và, quên phần gốc. Phần gốc là lính Mỹ. Chính họ đã biến Saigòn thành ổ điếm...)
Tôi nghĩ phản bội tôi dành cho Bậu, trong thời gian xa cách, đã đủ. Tôi nghĩ, những đau đớn, những thất vọng tôi để lại cho Donna, đã nhiều. Với bất cứ người nào, dù cho đó là người con gái ốm o từ thể chất tới tinh thần như Bậu; hoặc mạnh khỏe, vững vàng như Donna, thì, điều gì tôi để lại cho họ cũng đã là quá đủ. Tôi chẳng thể trút xuống tâm hồn họ, ít nhiều tồi tệ mới.
Mùa đông. Indianapolis. Những lớp tuyết mỗi ngày mỗi dầy, cao thêm trước cửa nhà, trên đường đi. Những manh vải mầu đỏ xẫm cuối cùng, được gió và tuyết cởi, dứt khỏi những cành phong cao nhất. Các chương trình phát thanh đã bắt đầu bỏ những đĩa nhạc có những bài hát quen thuộc.
Mùa đông. Thời tiết đã mang lại cho thành phố, nơi tôi sắp rời, bỏ nhiều thêm âm thanh và mầu sắc. Thời tiết cũng lấy đi khỏi thành phố chúng tôi đang ở, lấy đi khỏi tâm hồn tôi và Donna, những lượng rượu Giáng Sinh, những men cay, tới nồng hy vọng và hạnh phúc của một năm mới, phía trước. Không cần ai phải nói, tôi cũng biết Giáng Sinh đã rút xa bờ cát cùng, những ngày đầu tiên tẻ nhạt của một năm mới xa lạ.
Nếu sự rút lui kia chỉ để lại trong tâm hồn Donna một khoảng trống bập bùng hoang mang rình rập bất trắc; thì, với tôi, nó lại thắp lên những thiếu hụt, những nhớ nhung chẻ vụn, những cồn cào rách, tơi. Buổi sáng, Chicago. Mùa đông khoác lớp da xám ngoét, như thân thể một người bệnh kiệt máu; mà những cành cây trơ xương như những ống nylon dẫn nước biển, chằng chịt chạy trên thịt da chờ chết. Buổi sáng, mùa đông kiệt máu kia theo tôi qua những đường phố, lên những cây cầu, chuồi dưới những tàng phong cháy đỏ nỗi muộn phiền ngộ dại liu điu. Buổi sáng. Chicago. Cuối cùng, tôi hiểu, cách gì tôi cũng phải trả Bậu, trả Donna, trả Thục, trả Thư..., về với thời tiết của riêng họ. Dù cho họ có như con nhộng ngộp trong chiếc kén thời tiết phù du mỗi người.
Và, D., D., rất yêu dấu của tôi. Tôi biết, tới giờ, D. vẫn còn thắc mắc về sự đổi thay đột ngột của tôi hôm đó. Tôi biết... Bởi chính tôi, tới giờ, cũng không hiểu điều gì đã xẩy tới cho mình. Tôi không muốn đổ lỗi một cách dễ dàng cho những trận chill winds ở Chicago. Tôi cũng không muốn đổ lỗi một cách dễ dàng cho những cánh rừng phong cháy đỏ nỗi muộn phiền ngộ dại liu điu. Tôi cũng không muốn đổ lỗi cho Nguyên Đán sắp tới cùng lúc với mùa đông dợm bước ra đi. Dù tôi hiểu, nếu tôi có đổ lỗi cho chúng, thì cũng chẳng oan ức gì cho ai; ngoại trừ tôi: người muốn che dấu thời tiết/ tuổi già/ bất lực trong chiếc kén hôn ám cuối đời, tự mình, dệt lấy.
1.97.
Tôi/ vó câu buồn/ sâu/ sớm mai
em đi để lại hồn thơ dại
tôi/ vó câu buồn/ sâu/ sớm mai.
thơ dtl.
Có dễ mười mấy năm, tôi mới có lại một buổi quây quần với anh em, bằng hữu, mà, không có sự hiện diện của bất cứ một người nữ nào. Đó là buổi trưa ở Buena Park. Thành phố phẳng bẹt với những nhà thấp, khúc đường vụn, cụt, tiếng gà gáy sảng, như những giọt âm thanh thình lình rắc trên một nền trưa căng, ắng. Trần Duy Đức nói về những ngày làm lính thú ở Pleiku. Những ngày tuổi trẻ hồn nhiên, hăm hở, sống, ngộn ngồn mỗi giây, phút. Tựa chiến tranh và sự sống nứt, trào là hai con đường song song, mang tính hỗ tương, đỡ dìu nhau chứ không hề làm ung thối, triệt tiêu nhau.
Đức say sưa nói về những bản nhạc viết ở cái thành phố sương muối. Những ngày sống bạt mạng: bỏ đơn vị, phi trường Cù Hanh, bất chấp lệnh cấm trại... Đức say sưa nói về những rung động giao thoa với những câu thơ, những bài thơ của tôi, trên báo Văn, thời tuổi trẻ của anh. Đức nói về nỗi nhớ Saigòn quay quắt; sự cất cánh, chỗi dậy của Saigòn, thành phố chỉ thực sự sống động trong anh, khi phải lìa xa nó. Đức nói về hình dung một chia tay, buổi sáng. Buổi sáng Saigòn đầy lá. Đức nói về hình dung một chia tay, buổi chiều. Buổi chiều Saigòn bội thực nắng. Và, nắng ăn lốm đốm da em... Đức nói về những cánh rừng không chịu chia tay với ký ức. Những cánh rừng gió mãi. Những trận gió rừng thổi sạch mọi điều, mọi thứ trong lòng ta. Để cuối cùng, chúng dắt ta tới chỗ ngồi mà, từ đó, ta phải đối diện với nỗi trống trải, chạm mặt với cô đơn, sự vô nghĩa của kiếp người.
Có dễ mười mấy năm tôi mới có lại một buổi quây quần với anh em, bằng hữu mà, không có sự hiện hiện của bất cứ một người nữ nào. Đó là buổi trưa ở Buana Park. Buổi trưa trong một căn phòng đầy cổ vật và, những bức tranh của Đăng Trường trên vách, nơi cánh cửa closet, nhà tắm... Hầu hết những bức tranh này được vẽ bằng mầu nóng. Những tác phẩm điêu khắc trên gỗ, đất nung, những tấm mặt nạ bằng đồng đen, từ những chỗ đứng tối khuất nhất, dường không phút giây lơi rình rập, canh chừng những ngọn nến bập bùng dưới những dàn tre, nứa non, treo lửng dưới trần nhà thấp. Một thế giới khác. Thế giới âm u, thu nhỏ và biệt lập với cuộc đời dung tục, bên ngoài. Tôi bảo Trường, tôi thích vô cùng, thế giới ấy. Trường kể, bạn gái anh, ngược lại. Cô rất hãi sợ cái không gian chứa đầy bí ẩn kia? Trường kể, bạn gái của Trường đã luôn cầu nguyện sao cho Trường sớm ra khỏi, cái không gian bất thường ấy. Cái không gian nhỏ bé, quá ư dư thừa những u hồn quá vãng...
Trường cũng say mê nói về những ngày thơ ấu ở Pleiku; đề cập tới những thắc mắc siêu hình, những cật vấn đời sống, khi anh bước vào tuổi ba mươi. Khi bắt đầu của những năm ba mươi. Ngưỡng cửa ấy, Trường vừa bước tới. Tuổi trẻ nào, rồi cũng sẽ phải bước qua. Khi bắt đầu của những năm ba mươi, với tuổi trẻ Việt Nam, là ngưỡng cửa của những trái cây chín rú. Khi bắt đầu của những năm ba mươi, với tuổi trẻ Việt Nam, là chập trùng bất hạnh, đau thương. Khi bắt đầu của những năm ba mươi, với tuổi trẻ phương Tây, cửa đời chỉ mới vừa hé mở.
Trần Duy Đức hát: Cảm ơn em yêu dấu, xin cảm ơn sự nhắc nhở - cảm ơn em yêu dấu cho ta nhớ sinh nhật ta - Lần đầu tiên ta nghĩ, nghĩ tới ngày mình - han hỏi - Lần đầu tiên ta nghĩ, nghĩ tới ngày mình - Ôi dấu mốc thời gian bao năm thảm đạm, lúc bắt đầu của tuổi ba mươi - Cảm ơn em yêu dấu, xin cảm ơn cuộc sống này - cảm ơn em yêu dấu cho ta sống đến ngày hôm nay - Để đón chờ em tới với sự nhắc nhở - để đón chờ em tới với lời hỏi han - bởi nếu không chắc chẳng bao giờ, một lần ta tự hỏi, trong xúc động bồi...
Tôi nhớ đó là mùa hè, 72. Vì sự quyết liệt của tôi, Thục chưa bước vào tuổi hai mươi, đã phải bậm môi, nghiến răng dứt bỏ giọt máu khao khát đỉnh ngọn của cuộc tình nàng. Tôi nhớ, đó là mùa hè, 72. Ti phải bỏ Chuột ở nhà cho hai chị người làm, trở lại trường trong những giờ thực tập bắt buộc, với cặp vú căng sữa, nhức nhối.
Tôi nhớ đó là mùa hè, 72. Ở Huế, lần đầu, Hạnh cảm nhận được trọn vẹn cái trong, đục, cái bất thường, nghịch lý của câu hò về dòng sông An Cựu, nắng đục, mưa trong. Con sông êm ả chảy suốt niên thiếu nàng. Tôi nhớ, đó là mùa hè, 72. Thời gian này Hiệp Định Paris đã hay sắp sửa được ký kết. Trong những gặp gỡ sau cùng ở La Pagode, X., muốn tôi dứt khoát bỏ hết, để gia đình nàng lo giấy tờ cho tôi cùng nàng ra khỏi nước trước khi trở tay không kịp... Tôi nhớ năm đó, dường như X. mới học đệ nhị. Tôi quen X. vào giữa năm X. học đệ ngũ. Cuộc tình kéo dài với những giai đoạn tưởng như không còn vì, sự xuất hiện của Ti, rồi Thục trong đời tôi.
Ngỡ ngàng, xúc động, tôi bảo X., cho tôi gửi lời cảm ơn mẹ nàng, và, tôi không thể làm như vậy. Ngỡ ngàng, xúc động, tôi bảo X., tôi rất biết ơn tấm lòng X., tôi rất cảm kích mối lo toan X. dành cho tôi. Nhưng tôi không thể... Nếu tôi chọn sự bỏ đi khỏi đất nước này, tôi đã đi từ những năm cuối sáu mươi. Nếu tôi có thể sống được, ngoài nhịp đập của trái tim Việt Nam; tôi đã nhận sự giúp đỡ của ba mẹ Donna, những ngày ở Indianapolis. Tôi nói cảm ơn. Cảm ơn thật nhiều. Dù không có ai, bởi ai, tôi cũng không thể chọn cách thế để trái tim mình đập ngoài lồng ngực. Tất cả những hệ lụy kia, tất cả những ân nghĩa, nhục nhằn, ê chề nọ, làm thành tuổi ba mươi của tôi. Cái ngưỡng cửa mà ở thời tuổi trẻ ấy, tôi nghĩ, là con đường dẫn tôi tới hầm mộ. Con đường ngắn ngủn. Con đường gần xịt, sự chết.
Bây giờ, tôi đã bước vào giữa tuổi năm mươi. Đã hai mươi ba lăm năm lìa, khuất tuổi ba mươi, cố nhớ lại, tôi vẫn không thể tự trả lời mình câu hỏi, tại sao, ở tuổi ba mươi, tôi đã sớm nghĩ cái chết? Cố nhớ lại, tôi vẫn không giải thích được cho mình, tại sao, ngày đó, chưa bước vào tuổi ba mươi, trong một lần nói chuyện với ông cụ thân sinh của Ti, tôi bảo, tôi chỉ mong sống được tới 40 tuổi. Nếu tới tuổi 40, chưa chết, tôi cũng sẽ tự giải quyết lấy đời sống của mình. Khi ấy, cuộc tình tôi và Ti chỉ mới bắt đầu.
Buổi tối hôm đó, sau bữa ăn, ông cụ gọi Ti ra hiên trước, bảo, con không thể lấy được thằng đó đâu. Chưa gì mà nó đã nói với ba, nó chỉ muốn sống tới 40 tuổi mà thôi. Ba không đành lòng thấy con trở thành góa phụ năm ba mươi tuổi. Hôm sau, gặp nhau, Ti trách tôi quá chừng chừng. Nàng bảo, tôi không thể tâm sự với ba nàng, những điều như vậy. Tôi cãi, đó là suy nghĩ rất chân thật...
Phải chăng, khi một con người, từ lúc sinh ra, đã sớm sống kề cận với cái chết, sự không chết non, mới chính là điều bất thường? Không biết nữa. Nhưng tuổi ba mươi của tôi, thế đó.
Thực chăng em yêu dấu, có thực chăng ta đã bắt đầu? Thời gian qua đằng đẵng và ta đã làm chi đời ta? Tuổi ba mươi ta sống tháng ngày xa lạ - tuổi ba mươi ta có quá khứ mịt mùng - Em bước vào đời ta đớn đau trùng trùng - có bàng hoàng cảnh đời ta âm u? Cảm ơn em yêu dấu, xin cảm ơn hạnh phúc này - Cảm ơn em yêu dấu cho ta nhớ sinh nhật ta - Bởi yêu em ta sống, với niềm hy vọng - Bởi yêu em ta cố sống nốt đời mình - Em có hứa cùng ta sẽ chia u uất này, như nỗi buồn dấu trong kiếp người?
Trần Duy Đức hát tiếp phần còn lại của bài hát. Nghe lại, bài thơ, viết trong những ngày tháng chưa thực sự bước vào tuổi ba mươi, tôi không biết mình có rơi vào tâm trạng thậm xưng, phóng lớn thảm kịch đời mình?
Trưa nay nghe lại, trong tôi lềnh váng nỗi ngậm ngùi liu điu. Nỗi ngậm ngùi đìu hiu của một người lớn tuổi, lắng nghe, cảm thông tâm sự, chia sẻ với cảnh ngộ đời sống của một người bạn trẻ. Nghe Đức hát, tôi thấy nơi tôi rất nhiều bạn trẻ vây quanh. Tôi thấy tôi trên lộ trình Ba Mươi, Saigòn, Huế, Đà Nẵng, Saigòn, Pleiku, Kontum, Phú Bổn, Saigòn, Cường Để, Trần Cao Vân, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Gò Vấp, Trương Minh Giảng, Thị Nghè, Hàng Xanh, Xa Lộ, Làng Báo Chí...
Tôi thấy tôi gặp lại những người đã bỏ tôi mà đi. Tôi gặp lại Ti, Thục, X. Gặp lại Hạnh, những ngày rời An Cựu về Chợ Mai, ở với Trạc, Sáu, Xưởng và các anh Ky, Thụy. Tôi cũng gặp lại Hy Quyến, người từng đặt cho tôi các xước danh Ông Mèo Rừng. Quyến vượt biên năm 1984, tới nay, vẫn không tin tức.
Nghe Đức hát, tôi gặp những người-bạn-tôi trong tôi, trở lại. Tôi thấy họ ngồi đâu đóm rụt rè, cả thẹn trong căn phòng / thế giới khác của Trường. Tôi rưng rưng muốn vuốt mái tóc mười ba, mười lăm của họ. Tôi bồi hồi muốn nắm bàn tay hai mươi, hai mốt... Tôi muốn nói với họ nhiều điều, hỏi han họ nhiều thứ. Tôi muốn bảo họ, hãy lên tiếng, hãy thẳng thắn cho tôi biết, tôi có thậm xưng chăng, trong những dòng thơ, ở những năm đầu của tuổi ba mươi. Nhưng họ rụt rè / nhút nhát / cả thẹn quá!
Họ làm tôi khựng lại. Trong một giây phút thoáng nhanh, tôi hiểu, bên cạnh ngón tay cái, nơi bàn tay phải của họ, cũng giống tôi khi xưa: họ có một ngón tay thứ sáu.
Có dễ hơn mười mấy năm, tôi mới lại có được một buổi quây quần với anh em bằng hữu; mà, không có sự hiện diện của bất cứ một người nữ nào. Đó là buổi trưa ở Buena Park. Buổi trưa trong căn phòng / thế giới khác của Trường. Đoàn Duy Hiệp nhắc tôi một câu thơ cũ. Câu thơ nói về những nỗi buồn thức dậy, lớn cao theo bình minh. Em có buồn riêng đôi sớm mai. Tôi nhớ rồi. Tôi nhớ bài thơ đó có một duyên phận may mắn hơn những bài thơ khác; ở chỗ có tới hai người: Phạm Gia Cổn và Trầm Tử Thiêng, phả hơi thở âm giai tâm hồn họ vào đó.
em có buồn riêng đôi sớm mai
con đường có những đoạn chia phôi
cánh chim dấu những mùa di trú
ta dấu hờn, ghen góc trái này.
Phải rồi, tôi không nghĩ Hiệp biết bài thơ kia có tới hai người phổ nhạc. Tôi cũng biết Hiệp không đề cập tới bài thơ, trong ý hướng đó. Hiệp chỉ muốn nói về nỗi buồn nơi những sớm mai. Tôi hiểu ý Hiệp. Tôi bảo Hiệp, người ta quen nói về nỗi buồn buổi chiều, buổi tối. Chí ít, cũng là nỗi buồn buổi trưa. Với tiếng võng, tiếng ru em, tiếng tre đưa, tiếng cu gáy gù mái... Không ai nói về nỗi buồn trong những sớm mai. Mặc dù, mới sớm mai đã buồn, thì, nỗi buồn đó, phải dài lâu, phải lắng sâu hơn nhiều. Bởi vì, nỗi buồn còn nguyên một ngày dài để sống tiếp cái sinh phần bất hạnh của nó.
Tôi nói với Hiệp, mỗi con người, do hoàn cảnh môi trường và điều kiện sống, chúng ta, tự thơ ấu đã có những ám ảnh kỳ cục. Những mối sợ vô lý. Những tưởng tượng hãi hùng, bí ẩn.
Như tôi có cô em, Lan, ở Seattle. Lan rất sợ nhìn mây. Mỗi khi Lan nhìn thấy mây vần vũ trên trời là Lan sợ rúm người lại. Lan kể, từ nhỏ Lan đã thấy nơi những đám mây nhiều hình thù quái đản. Hình thù của những con quái vật có hàng chục cái đầu, hàng trăm cánh tay... Những con quái vật ở trên mây, lúc trời chuyển mưa, luôn chực chờ nhào xuống, cuộn ôm lấy Lan, đem đi mất.
Như tôi biết, Thục bị ám ảnh về người đàn ông lớn tuổi, đeo kính đen, đội mũ xụp. Chẳng là khi Thục còn nhỏ, mỗi khi Thục thấy người đàn ông lớn tuổi, đeo kính đen, đội mũ xụp, đi ngang nhà, lập tức mẹ nàng quơ vội lấy chiếc nón, tất tả ra đi ngay lập tức. Ám ảnh này đeo đẳng Thục cho tới khi nàng lớn. Ngay bây giờ, Thục còn cảm thấy bất an mỗi khi tình cờ bắt gặp những hình ảnh tương tự. Dù tới giờ này, Thục vẫn không biết, giữa người đàn ông kia, và, những lần ra đi vội vã của mẹ nàng, có một liên hệ nào?
Như tôi biết, suốt một tuổi thơ, Hạnh bị ám ảnh về đôi guốc cao gót. Với Hạnh thời nhỏ, đôi guốc cao gót là cả một điều gì vô cùng kỳ diệu. Tới khi Dì Út sắm được cho Hạnh đôi guốc cao gót đầu tiên, thì, đó cũng là lúc vợ chồng Dì Út bỏ nhau. Chỉ vì ông Dượng không chịu nổi hình ảnh, tiếng guốc của Hạnh suốt ngày khua, đập. Một lần, giận quá, ông dùng thanh gỗ gài cửa, nện giữa đầu Hạnh. Hạnh chết giấc. Nhiều tháng sau, Dì Út còn tưởng Hạnh mất trí vì hành động dã man này. Bây giờ, mỗi khi nhìn thấy một đôi guốc, hay giầy cao gót, Hạnh còn rùng mình và, có thể khóc được.
Những ngày ở Seattle, nghe Lan kể, tôi biết nhiều người cho là bất thường, khó tin. Riêng tôi, tôi tin Lan nói thật.
Trong tuổi thơ tôi, cũng có những đám mây chì, bay gấp, rút... Nhưng nó không hề là một ám ảnh ghê gớm. Trái lại, ám ảnh lớn nhất của tôi, là những buổi sáng. Những sớm mai.
Những sớm mai, trong tuổi thơ tôi, đồng nghĩa với tang tóc, chết chóc.
Tôi từng trải qua những sớm mai, bị dằng lôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ tôi quấn vội lên đầu tôi mảnh khăn tang. Chị vú bế tôi lẽo đẽo đi sau những chiếc xe tang. Đó là những ngày đưa đám ma thầy tôi. Rồi chị Trang tôi. Đó là sớm mai, trời còn đẫm sương trắng, mẹ tôi bưng mặt khóc, theo chân kẻ dẫn đường, đi tìm xác người anh cả tôi bị máy bay Pháp bắn giữa trưa mồng ba Tết, ở Nho Quan...
Tôi đã từng trải qua những sớm mai, trời chưa rạn sáng, mẹ tôi đã bỏ tôi vào chiếc thúng, mà, thúng bên kia là chiếc lư đồng, để người ta gánh tôi chạy băng băng qua những thửa ruộng lấp xấp nước. Đó là những ngày gia đình tôi chạy tản cư, từ Kim Bảng, qua Đồng Lạc, tới Rừng Mơ... Rồi chúng tôi lại chạy ngược từ Rừng Mơ, về Đồng Lạc, Kim Bảng, Phủ Lý.
Tôi từng trải qua những buổi sáng mở mắt, không thấy mẹ, tôi không thể biết bà dậy từ lúc nào? Bỏ tôi đi từ bao giờ? Chỉ nhớ như in, chập tối, rõ ràng tôi còn nằm gọn trong lòng bà. Rõ ràng tôi còn thò tay vào lớp áo phin nõn, mát rượi của bà để sờ ti... Rõ ràng, trong đêm, bà còn để mặc tôi lôi cả chiếc vú bèo nhèo như ổ bánh mì quá ngày, bị úng nước của bà ra khỏi áo, để bú ti nữa. Vậy mà khi tôi thức giấc, bà đã biến mất. Mọi điều biến mất.
Tôi từng trải qua những buổi sáng kinh hoàng, hốt hoảng như vậy.
Có những sớm mai, kéo dài nhiều ngày liên tiếp, tôi không có mẹ. Đó là thời gian mẹ tôi phải đi buôn hàng chuyến, trục Hà Nội/Phủ Lý. Những chuyến đi, đôi khi kéo dài cả tuần vì đường về bị đấp mô, đê vỡ, cầu bị giựt sập...
Sớm mai, như vậy đó, suốt tuổi thơ tôi, không hề, bình mình hứa hẹn niềm vui; không hề, tiếng chim véo von, đón chào một ngày chan hòa ánh sáng. Tôi nói với Hiệp, tôi thích câu thơ Hiệp mới đọc lại. Tôi bảo, tôi cũng rất thích câu thơ:
em đi bỏ lại hồn thơ dại
tôi/vó câu buồn/sâu/sớm mai.
Hai câu thơ trong bài Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời, do Trần Duy Đức soạn thành ca khúc. Tôi bảo Hiệp, những thơ tôi thích thường là những câu thơ không được độc giả chú ý. Làm như cảm nhận giữa người đọc và người viết là hai con đường nghịch chiều.
Hiệp bảo không hẳn thế. Bằng cớ, nếu Hiệp thích những câu thơ như đã nhắc, thì, cũng sẽ có nhiều người khác, thích chúng. Có thể Hiệp đúng. Có thể tôi không có may mắn được gặp nhiều người như Hiệp? Nhưng cách gì, sớm mai nào của tôi, không nhiều thì ít, cũng rộn tiếng vó ngựa. Những vó câu mang nỗi buồn vào sâu buổi sáng. Nỗi buồn do mất mát để lại, làm thức dậy những ám ảnh thời thơ ấu; và, nỗi buồn của chính tiếng chân ngựa chạy nhầu giữa một ban mai, vừa mới da non.
Nỗi buồn chân ngựa, nỗi buồn cá nhân, tôi, là những nỗi muộn phiền, lăn tới. Tôi và ngựa. Người và vật, có chung mối lầm than, chuyển động.
Chia tay những người bạn trẻ trong ngôi nhà ở thành phố Buena Park, trở về, tôi có cho mình câu hỏi:
- Nếu không bị lưu lạc quê người, liệu tôi có cột buộc nỗi buồn mình vào chân ngựa, để chúng phải chia xớt với tôi, phần nào mối bất hạnh của kẻ bị đẩy văng khỏi tổ quốc?