Rất nhiều thi sĩ không “phá vỡ” lề lối thơ cũ đến như vậy, có thể họ vẫn tôn trọng âm điệu bằng trắc, hay vần, mà chỉ dùng các cú pháp mới, cách ghép các từ ngữ, hình ảnh mới mà thôi.
Thí dụ mấy câu thơ Du Tử Lê :
Tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngát tạnh
Con dế buồn tự tử giữa đêm khuya
Bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ
…
Em ở đó bờ sông còn ấm cát
Con sóng tình vỗ mãi một âm quên
Mới đọc qua chúng ta không thấy một ngôn ngữ nào kỳ lạ. Đọc lại lần nữa, chúng ta sẽ thấy vài hình ảnh, con dễ buồn tự tử, bờ sông còn ấm cát, tiếng sóng vỗ như một âm thanh đã quên…Đọc lại nhiều lần, chúng ta lại thấy cả những hình ảnh trên cũng không còn lạ lẫm nữa. Có cái gì khiến chúng ta phải dừng lại ngẫm nghĩ, như đi qua vườn phải dừng chân ngắm nghía một bông hoa lạ. Tại sao “bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ” ? Tại sao có cả mắt em ngát tạnh (ngát tạnh là xúc giác hay khứu giác ?) cùng với bờ sông cát ấm, và “con sóng tình vỗ mãi một âm quên” ? Con dế thời thơ ấu, con dế mèn suốt trong đêm khuya hát sẩm không tiền, bây giờ con dế đã tự tử, bầy sẻ đã qua đời, mắt lạnh hắt hiu và âm thanh đã quên lãng. Tất cả các cảm xúc và hình ảnh, và hồi ức đó, dâng lên cùng một lượt, như một bức tranh, một đoạn phim. Đằng sau các ngôn ngữ đó là một cõi lòng mà nếu chia cắt các câu, các từ ngữ ra, ta không thấy được. Cái lạ ở đây không nằm trong kỹ thuật. Cái lạ bắt nguồn từ trước khi ngôn ngữ thốt lên. Chính cách sống, cái nhìn, cách xúc động mới, dù lồng trong hình tướng cũ của ngôn ngữ, đã tạo ra thơ.
Đỗ Quý Toàn
(trích “Tìm thơ trong tiếng nói”)
Thanh Văn xuất bản,