Mắt Lệ Cho Người (Tác Phẩm 14)

20 Tháng Bảy 20222:22 CH(Xem: 4503)
Mắt Lệ Cho Người (Tác Phẩm 14)

 

MatLeChoNguoi_W

PHỔ THÔNG BÁN NGUYỆT SAN

MẮT LỆ CHO NGƯỜI


Ngôi nhà như bị cắt đứt hẳn liên lạc với thế giới bên ngoài và đang nghiêng đi bởi những dòng nước ào ạt từ trên cao đổ xuống.

    Chúng tôi đã bước sang ngày thứ ba chịu đựng cơn mưa dầm dề ngày đêm không dứt. Ở thị trấn này, hầu như năm nào cũng có một trận mưa tối tăm trời đất như vậy.

    Về vấn đề thực phẩm chúng tôi không lo lắm bởi dì Năm đã dự trữ đồ ăn khô đủ cho một tháng hay hơn thế nếu dè xẻn. Hơn nữa, cả nhà, cũng chỉ có hai miệng ăn, ngoài hai dì cháu tôi, không còn một ai khác.

    Nhưng vấn đề là sự bồn chồn nôn nả một cách khác thường, mỗi giây phút qua một bật lên rõ ràng ở trong tôi.

    Ba đêm nay rồi tôi không khi nào chợp mắt được quá một tiếng. Ngày tôi cũng không ngủ được. Dì Năm không giấu được nỗi lo lắng áy náy. Dì nói, có mấy ngày thôi mà trông tôi khác hẳn.Gầy xộp đi như người ốm mới dậy.

Dì hỏi tôi cảm thấy trong người ra sao, có ốm đau gì không mà sao tôi sút đi một cách nhanh chóng dễ sợ đến như vậy. Tôi trả lời dì là tôi vẫn bình thường, không sao hết. Trả lời như vậy chứ thực ra, tôi đã nói dối dì Năm. Tôi hiểu tại sao tôi mất ngủ và tại sao tôi lại ốm nhanh như thế này.

    Tôi nghĩ cũng chẳng ích gì khi đem chuyện của tôi và chàng ra nói với dì.

    Hẳn nhiên là dì Năm sẽ chẳng giúp được gì cho tôi nhưng chính sự im lặng này đã khiến tôi mỗi ngày một uất ức thêm.

    Tôi cũng không hiểu vì sao, câu chuyện của bảy tám năm qua, giờ đây lại trở về như mới xảy ra vừa xong cho tôi.

    Cái trực giác bén nhậy, ít khi sai của tôi, đã báo cho tôi biết, tai họa, một lần nữa lại sắp sửa giáng xuống đầu tôi. Tai họa này sẽ được bắt đầu bằng sự tìm đến của một kẻ nào đó, trong một ngày nào đó, gần lắm. Có thể là trong ngày hôm nay, có thể sáng mai, hay buổi chiều. Tôi không thể biết chắc. Nhưng tôi linh cảm thấy kẻ đó đang mỗi giờ, mỗi phút tiến lại gần tôi hơn.

    Có lúc tôi tưởng kẻ đó đã ở ngay bên cạnh tôi, đang đứng trước mặt, đang nấp sau lưng tôi, và cái cảm tưởng này đã làm tôi rùng mình, hốt hoảng. Thần trí tôi luôn bị lay động với cái ám ảnh kỳ quái này. Phải chăng vì thế tôi đã không thể nào chợp mắt được?

    Nhưng mặt khác, thực tế hơn, tôi không thể tin rằng có một kẻ nào tìm đến nơi hẻo lánh này giữa cơn mưa dầm dề đã ba ngày không dứt. Phải. Đã từ ba ngày nay không còn một chuyến xe hàng nào đi ngang đây nữa. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi còn nhìn thấy những chuyến xe hàng cũ kỹ, xục xịch, chạy từ trung tâm thị trấn, ngang qua con đường này, tới những buôn thượng ở phía cánh rừng bên kia ngọn đồi, về hướng tây. Mà những chuyến xe hàng đó cũng không có thường gì. Họa hoằn lắm một ngày mới thấy một chuyến chở muối gạo nước mắm hay những vật dụng cần thiết tới những buôn thượng để lúc trở về đem theo thịt rừng, da thú và những thổ sản đặc biệt khác của mấy buôn này.

    Đang nghĩ ngợi vẩn vơ, chợt tôi nghe thấy tiếng động cơ nổ ở đâu đó xa lắm. Tiếng động cơ theo chân gió vẳng đưa tới tai tôi, lúc mạnh, lúc yếu. Tôi không dám tin ngay nơi thính giác của mình. Tôi chạy ra ngoài hiên. Mưa ào ạt quất đập cả cây cối. Những dòng nước trắng xóa ào ào cuốn trôi những cành cây và xác lá. Dì Năm cũng đang đứng tựa lưng vào cột nhà.

    Tôi bước lại gần dì và lắng nghe. Tiếng động cơ nổ rất rõ. Không thể nào lầm lẫn với tiếng động cơ khác được. Tôi đưa mắt nhìn dì Năm.

    Hình như dì Năm không để ý đến sự dọ hỏi bằng mắt của tôi. Dì nắm lấy tay tôi.

    Thời gian qua chậm chạp. Chậm đến đổi tôi thấy tức nghẹn hơi thở ở ngực.

    Chợt dì Năm nói:

    -Con nghe gì không?

    -Tiếng xe nổ. Tôi nói.

    Dì Năm ngơ ngác một giây trước khi đáp:

    -Đúng! Nhưng in là đã chết máy.

    -Dì nói gì ạ?

    -Con không nhận ra sao?

    -Thưa, tiếng xe im bặt, đột nhiên im bặt.

    -Con nghĩ sao?

    -Con cũng nghĩ… như dì. Xe chết máy.

    -Có thể chăng?

    -Vâng, có thể lắm chứ.

    -Hay…

    -Sao cơ dì?

    -Hay dì và con đi.

    -Đi đâu trong cơn mưa này được?

    -Đi về phía xe. Phía phát ra tiếng động cơ.

    -Làm sao được? Biết ở đâu?

    -Được chứ. Cứ đi.

    -Không được đâu dì. Giữa rừng. Trời đã tối. Tiếng xe đã tắt. Chúng ta không có cách nào để định phương hướng giữa tiếng mưa đều đập xuống bốn phía chung quanh.

    -Không lẽ mình cứ thản nhiên.

    -Không. Con sợ lắm.

    -Sợ cái gì?

    -Sự lẻ loi, cô độc.

    Dì Năm cười. Nụ cười chỉ lay động những đường nhăn xếp lớp hai bên má xong lại phẳng lặng như cũ:

    -Con nhút nhát quá. Chẳng có gì mà cũng sợ được.

    -Vâng. Con thiếu can đảm.

    -Con cần nhiều nghị lực hơn mới có thể sống vững trong đời sống này.

    -Chính con mơ ước điều đó. Được như vậy, chắc con đã khác. Khác lâu rồi. Không như bây giờ. Không ở đây.

    -Nghĩa là?

    -Con không giải thích được. Nhưng con mơ ước.

    -Mơ ước?

    Dì Năm hỏi lại giọng xa vắng và lạc lõng. Đôi mắt chỉ còn như hai khoanh ruột nhãn thoáng sáng lên, rồi vụt sầm tối, đục lại. Mầu đục ẩm của nền trời nhiều mây mù và hơi nước. Mầu đục ẩm của quá khứ sau lưng và tương lai trước mặt.

    -Tính sao giờ con?

    Dì Năm trở lại vấn đề. Tôi lắc đầu nhìn mưa, lòng vừa bồn chồn vừa náo nức. Không phải tôi ngại lội đi trong giá rét. Không muốn đến chỗ chiếc xe nằm ụ. Vì nếu đến được đó, ít ra, tôi cũng có thể tự trả lời nghi vấn của tôi: “Có chàng không trong chuyến xe ấy!”. Có hay không? Tôi chỉ muốn biết chừng đó. Muốn biết rõ. Nhưng làm cách nào có thể đến được chỗ ấy? Trong khi chúng tôi không thể xác định được phương hướng, lại nữa, nếu chẳng may trong lúc chúng tôi băng rừng, dò dẫm, tìm chiếc xe, biết đâu, nó chẳng chạy được. Nó ngang qua đây, căn nhà trống. Không một bóng người, và lỡ, biết đâu, làm sao nói trước, có một kẻ bước xuống tìm tôi.

    Linh cảm của người phụ nữ trong những trường hợp đặc biệt, ít khi sai. Tôi tin thế. Tôi đã kinh nghiệm. Ít khi sai lắm.

    -Không lẽ mình chịu trận ở đây? Dì Năm lập lại ý cũ với nhiều nôn nả hơn. Tôi đáp liều:

    -Dì ráng đợi thêm một lát nữa xem. Không có tính sau.

    -Tại sao mình không tính trước?

    Có nhiều việc mình không thể tính trước. Dì không nhận thấy thế sao?

    -Ừ. Cũng phải. Nhưng dì sốt ruột quá!

    -Con còn nóng hơn dì. Bởi con đã đợi…

    -Bao lâu. Sao con biết mà đợi.

    -Tám năm rồi.

    -Lạ quá.

    -Thưa dì, sao?

    -Sao lại tám năm?

    Tôi biết mình đã lỡ lời trong cơn mê sảng của vô thức. Mà tám năm qua rồi còn gì nữa.

    -Nhanh thật. Tôi nói tiếp.

    -Cái gì nhanh.

    -Đời người.

    -Không nhanh đâu. Đến tuổi già, con sẽ thấy chậm. Nó chậm lắm. Từng giây từng khắc.

    -Con chưa qua tuổi đó. Nhưng chắc con sẽ không có tuổi đó để trắc nghiệm.

    -Sao lại không? Ai chả có.

    -Con thì không. Tôi khẳng định.

    -Lại nói nhảm rồi.

    -Thiệt mà. Con nói thiệt.

    -Thiệt cái gì?

    -Vâng. À mà dì ơi.

    -Phải tiếng xe đó không?

    Dì Năm đột nhiên nói lớn lên như người vừa vỡ giọng.

    -Phải đó dì. Tiếng xe. Tiếng xe sống lại.

    -Sống lại rồi sao? Thiệt đó chứ.

    -Thiệt vậy rồi.


    Chúng tôi cùng chờ người tới. Khoảng cách giữa những hạt mưa trên mái tôn và mặt chúng tôi được thâu gần lại, như không còn quãng cách.

    Tôi đã ngửi được mùi mưa nhạt nhạt, ngái ngái, như trong đó có lẫn mùi lá mục, mùi những trái thông non sung nước rớt xuống, mùi những thân dây leo thối ủng, bị mưa kéo tuốt khỏi thân bám.

    Tiếng xe rõ và gần như đang có ở trước mặt.

    -Dì có nghe thấy tiếng nổ của nó, cà giựt, cà giựt như mới bắt đầu chạy lại?

    Tôi nói với dì Năm bằng giọng hân hoan vui sướng với phát giác có vẻ tinh tế của mình. Không biết dì Năm có nhận thấy thế không, nhưng dì Năm cũng gật đầu bảo: “phải, ừ, có vẻ giựt giựt, như muốn chết máy lại đó.”

    -Cũng có khi nó đang leo dốc.

    -Phải. Dì cũng muốn nghĩ vậy nữa.

    -Nếu xe đi ngang đây.

    -Chắc rồi. Sẽ ngang đây.

    -Thì sao?

    -Con muốn sao?

    -Mình sẽ ra đón nó ở ngoài lộ.

    -Để làm gì?

    -Không biết để làm gì, nhưng bỗng dưng con muốn chạy ra đón nó. Biết đâu…

    -Con muốn nói có người quen?

    -Là con mong mỏi vậy thôi.

    -Ừa. Hay con cứ chạy ra.

    -Con ra nha dì.

    -Ừ. Ra coi, à mưa này làm sao đi?

    -Không dì. Con sẽ mặc áo mưa.

    -Đội nón nữa.

    -Vâng…

    Tôi lăng xăng, ríu ríu như một đứa trẻ con sắp được mặc quần áo mới để đi chơi. Tôi tất tả vào nhà trong với vội chiếc áo mưa, chụp vội chiếc nón lá của dì Năm lên đầu.

    Tôi chạy ra ngoài mưa. Hơi lạnh như những mũi kim châm không ngớt cắm sâu và lay động trên từng vuông thịt da tôi. Cái lạnh và những hạt mưa liên tiếp quất xuống làm cho tôi ríu chân bước không muốn nổi. Nhưng tiếng xe vọng tới mơ hồ có một mãnh lực kỳ dị kéo tôi lao vun vút về phía trước.

    Tôi chạy băng băng trên những vũng nước, những đám cỏ cao. Những trái thông mục vỡ choẹt, phụt nước dưới chân tôi.

    Tôi không phân biệt được cảnh vật chung quanh. Tôi chạy. Tôi lao tới như được hướng dẫn bởi một thần trí xa lạ huyền hoặc.

    Con dốc đổ nghiêng hơn trước. Chốc chốc tôi phải víu vào những thân cây để giữ thăng bằng cho mình. Cuối cùng rồi con đường nhỏ chìm dưới mưa, lượn vòng như một con trăn lớn đang uốn khúc.

    Một tay giữ vành nón cho gió khỏi lật ngược, một tay bám vào thân cây, tôi chọn một gốc thông lớn với tàn lá xum xuê che bớt những hạt mưa nặng và những cơn gió buốt.

    Chiếc xe hàng lừ đừ tiến đến ì ạch như một con rùa đen sù sì. Tôi nhìn thấy nó từ xa nhưng không thể nhận rõ những mặt người trong xe. Ngay cả người tài xế, tôi cũng không nhìn thấy, chỉ phỏng đoán vị trí của hắn, sau tay lái, tức bên phải tôi.

    Mỗi lúc chiếc xe như chạy nhanh hơn và không có gì vẻ gì là sửa soạn để ngừng lại trên đoạn đường mòn dẫn vào nhà dì Năm. Tôi thất vọng và muốn khóc vì thương hại cho sự rồ dại, điên khùng của mình. Chiếc xe đến gần. Đến gần hơn. Tôi muốn quay lưng chạy vào nhà để khỏi phải nhìn theo nỗi tuyệt vọng thê thảm của mình rơi rớt đằng sau xe. Nhưng tôi không thể làm được một điều gì khác hơn là trân trối nhìn nó.

    Rồi chiếc xe trờ qua mặt tôi. Trong làn mưa trắng đục, tôi có cảm tưởng như người tài xế có để mắt tới tôi. Y nhìn tôi. Phải. Cả dăm ba người hành khách nữa. Xe qua mặt tôi. Tôi nhắm mắt để đừng nhìn đừng nghĩ.

    Bỗng tiếng bánh xe bị thắng gấp, nghiến siết trên mặt lộ ướt làm tôi bàng hoàng ngơ ngác.

    Chiếc xe chưa ngừng hẳn thì cánh cửa ở sát với ca-bine của người tài xế bật mở. Một người mặc áo mưa, đội mũ rộng vành nhảy vội ra, lao lại phía tôi. Ngay lúc đó như một tia chớp lóe nhanh, một luồng điện xẹt ngang qua người tôi. Tôi nhận ra. Người đó là ai, và bấy giờ thì quả thực là đôi mắt tôi đã ràn rụa bởi những giọt lệ bao năm hằng ủ kín. Cùng là những giọt lệ, nhưng chưa bao giờ chúng giống nhau, dù cùng được ứa ra từ một khóe mắt?

Cũng như tôi, dì Năm không giấu được nỗi xúc động. Tôi không  muốn nói thêm điều chi về chàng để dì Năm cũng như chính chàng bớt phần nào bỡ ngỡ, nhưng cho đến lúc bữa cơm tối được dọn lên, trên chiếc bàn gỗ, tôi vẫn không nói thêm được một lời nào ngoài câu nói duy nhất, ngắn ngủi, khi cùng từ ngoài cơn mưa chạy vào đứng rũ nước dưới hiên “Chất đó”. “…Chất đó…” Thế thôi. Một tiếng thật gọn. Một tiếng thật ngắn. Một lời giới thiệu không mang trong nó một giá trị nào. Một tên gọi, có thể cũng vô nghĩa, cũng nhạt nhẽo, trơ trẽn vô vị không cần thiết như tên gọi một đồ vật. Một con dao, một cái kẹp. Một chiếc dép. Một đôi giầy. Nhưng với tôi. Phải với riêng tôi, trong tình yêu. Nó là tiếng thốt kêu bất thần có khả năng rung động, làm tê liệt mọi giác quan, hay làm sống lại một đời sống đã chết, như sự thốt kêu tên một đấng thiêng liêng, trước một khiếp hãi tận cùng hay một hạnh phúc tuyệt đỉnh.

    “Chất đó”. Ngay khi tôi thốt lên lời này với dì Năm, tôi đã không ngờ rằng, định mệnh, một lần nữa, lại khắc nghiệt đuổi theo tôi. Một lần nữa, những dây xích xiềng của tình cảm lại tròng vào cổ tôi, lại cột cùm tay chân tôi, và dẫn xô tôi ngã hằn xuống vực thẳm của cuộc tình chỉ gồm những rắn rết, những cốt xương rã mục.

    Bữa cơm chấm dứt trong niềm hoan lạc tận cùng của sự im lặng nghẹn ngào thân yêu.

    Dì Năm không cho tôi phụ giúp dì dọn bát đĩa xuống bếp.

    Ngồi nán thêm với nhau một lúc khá lâu nữa, chàng rủ tôi ra ngoài hiên. Những hạt mưa như đã đánh thức nỗi tủi cực của tôi.

    Và tôi đã không đừng được, sự lên tiếng.

    Chàng lặng lẽ nghe tôi nói trong nghẹn ngào, xúc động thực sự của tâm hồn mình sau bao tháng năm dồn nén. Tôi nói, cùng với những giọt lệ lăn nhanh qua hai gò má. Tôi nói. Tôi nói. Tay tôi nắm lại. Người tôi run lên. Tôi nói. Tôi nói. Cho tới lúc tôi không còn nhận ra được tiếng tôi. Không còn nghe một chút ý thức nào về cảnh vật chung quanh. Tôi nói. Nói và một phút giây chập chờn nào đó, tôi mơ hồ thấy mình mềm nhũn, thấy mình quỵ xuống như một đụm cát lở vỡ, từ từ.

    Chàng đưa tôi vào nhà.

    Cứ như lời dì Năm nói lại thì suốt đêm đó, tôi chìm trong những cơn mê sảng tiếp tiếp. Mỗi khoảnh khắc chợt tỉnh là một khoảnh khắc của nước mắt và sự nghẹn ngào. Chàng ngồi bên tôi, khuôn mặt tối xấp bóng đen. In là đến gần sáng tôi mới chợp mắt được.

    Lúc tôi tỉnh dậy, trời đã muốn về trưa. Dì Năm từ phòng bên đem sang cho tôi ly sữa nóng và mấy viên thuốc màu đỏ. Dì bảo tôi bị trúng gió, cảm lạnh, nhưng không sao. Tôi hỏi Chất đâu và nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn đều hạt dù không gian có vẻ hanh vắng. Dì Năm bảo chàng mới đi ra ngoài.

    Tôi nói:

    -Mưa thế này sao dì để Chất đi?

    Dì Năm chép miệng:

    -Ừ, dì có cản đó chứ. Mà Chất nó cứ đòi đi. Nó nói ra ngoài một chút thôi nó sẽ về ngay.

    -Con sợ Chất đi lạc đường mất.

    -Không có đâu. Chắc nó cũng chả đi đâu xa. Lần đầu tiên nó lên đây đấy hả?

    -Không lần thứ ba rồi. Nhưng là lần đầu tiên Chất ra khỏi thị trấn!

    -Sao nó biết con ở đây mà đến kiếm vậy?

    -Con cũng không biết nữa dì.

    -A mà tôi xin cô. Nói gì thì nói cô uống giùm cho tôi mấy viên thuốc này đi đã. Dì Năm bỗng đổi giọng.

    Tôi cười cười đỡ lấy ly sữa. Những dòng sữa ngọt chảy nhanh trong cuống họng tôi. Tôi tỉnh dần cùng những diễn biến chiều hôm trước phục sinh, và nỗi lo lắng cồn cào về chàng. Tôi không thể nghĩ được nơi chàng đang đến. Tôi không thể đoán được lối chàng đang đi trong cơn mưa và trong cái giá rét tái thâm thịt da này.

    Nhìn theo bóng dáng còm cõi của dì Năm với chiếc ly sữa cạn trên tay, tôi lại liên tưởng tới hình ảnh người mẹ còn trẻ nhưng đã sớm già nua với những âu lo, những dằn vặt, những chịu đựng âm thầm từ một người chồng khó tính, lặng lẽ ít biểu lộ tình cảm, và hai đứa con. Một đứa đi lính mấy năm bị thương ba bốn lần, được giải ngũ, trở về với một người vợ nhố nhăng, kết cuộc là trở về sống với cha mẹ ruột, và đứa con thứ hai, là tôi, trên tám năm nay, kể như, đã không còn là của người.

    Nếu người con gái dễ đem cảm tưởng gần gũi, an ủi lại cho người mẹ nhất thì cũng lại người ngắt hái đi những tình cảm đó mau chóng nhất và sạch cạn nhất. Tôi không tin có thể xẩy ra một trường hợp, mà trong đó tình mẫu tử giết chết tình yêu, nếu quả thực tình yêu đó là tình yêu. Chỉ có sự ngang bằng. Đó là mức tối đa và hiếm hoi mà tình mẫu tử có thể đạt được trong tâm hồn của một người con gái đang yêu. Tôi ở trường hợp này. Và chính trạng thái lơ lửng kia đã xẻ đôi tôi trong những mâu thuẫn trùng điệp của những khoảng khắc tiếp nối. 

    Tôi nghe đầu óc mình khô rang, thân thể nhẹ bổng như được tắm gội, được chiếu rọi bởi những đọt nắng sớm mai nào xa tắp, thứ nắng sớm không mọc lên từ một chân trời – thứ nắng sớm không được chiếu tới một phía mắt nhìn – Thứ nắng sớm phải được đón nhận bằng hồn, phải được hứng lấy bằng tim, phải được giữ nuôi bằng sự tĩnh lặng hoàn toàn của mọi giác quan, mọi cảm tính. Thứ nắng sớm căng mỏng ta, rộng ra trên giường nằm, thứ nắng sớm có thể chia cắt ta thành những ô vuông cho những gót chân son lò cò nhảy mê tới khi có thể “ăn” được một thửa ruộng, “vạch” được một ao cá. Thứ nắng tinh khôi. Thứ nắng của bắt đầu. Một bắt đầu ngượng ngùng, e thẹn.

    Tôi nhổm dậy, tựa lưng vào vách tường lạnh.

    Trời vẫn mưa, bên ngoài, thấp thoáng những hàng cây rũ lá, như những thiếu nữ lướt thướt trong tấm áo dài xanh mướt, lụng thụng và những mái tóc xuôi, chảy xuống thẳng, không được đỡ nâng bởi những gờ vai dù yếu ớt. Những hạt mưa cho tôi cảm giác thêm một ngày đã đi sâu, đã vào tới cõi mênh mang của nỗi muộn phiền vô cớ (Những vực thẳm luôn luôn cho ta bơi lội nhẹ nhàng nhưng vẫn kịp nghe được ở bên tai, văng vẳng một điệu nhạc buồn bã lạ lạ, xa xa. Một điệu nhạc gợi nhớ tới một dĩ vãng nào đó, mặc dù, sự thực, có thể cả quãng đời đã qua của ta, chưa dễ gì đủ giúp ta nhặt gom thành một dĩ vãng).

    Những hạt mưa, rơi bên ngoài khoảng trống vắng êm đềm của trí óc, không còn cho tôi cái ngậm ngùi của một “ đèo thưa, quán chặt”, nó đã biến thể. Nó đã khiến tôi mơ ước trở về nhỏ dại, dưới những dòng mưa xối đều ở một mái hiên, những lọn tóc cũn cỡn ép xuống, và mắt nhắm và mặt ngửa. Và mưa. Mưa đầm đìa. Mưa mát ngọt trên thân thể chưa phải nghĩ tới những phủ che cần thiết.

    Mưa. Mưa mãi. Như tiếng cười của em rơi vỡ trong suốt của đêm trên hàng hiên hai hè phố.

    … Nhưng tất cả đã quá muộn rồi phải không anh? Dù sự muộn màng hay quá sớm không ở nơi sự kiện mà ở chính tâm hồn ta, một phút giây sau, một giờ khắc trước không có gì được mang tên hay định tính nếu chúng ta không khoác mặc hay gắn gán cho nó. 

    Nhưng mà anh, dẫu sao thì, em cũng không thể làm khác hơn. Sự có mặt của P. luôn nhắc nhở em, một phản bội tồi tệ và trắng trợn. Không. Chẳng bao giờ có thể, nhưng… (lại nhưng), em vẫn không thể quên rằng P. vẫn còn đấy, cho dù P. có chết, cho dù P. không còn ở bên anh. Em có thể làm gì và phải làm gì, trước người đàn bà hiền lành vô tội đó. Trong khi, sự thực, họ cũng chỉ là một thứ nạn nhân, như em, chỉ khác nhau, cách thế của sự trở thành và ý nghĩa cuối cùng mang đến của cái phải gọi là nạn nhân đó mà thôi. Hơn nữa, xét cho cùng, đã chắc đâu, anh chưa phải là nạn nhân của chính anh. Có lẽ đó cũng là lý do cho tình yêu tồn tại, vì chỉ có tình yêu mới giải thích được cái mâu thuẫn mắt xích này. 

    Tôi đứng dậy, người loạng choạng muốn ngã. Tôi phải vịn tay vào bờ tường một lát trước khi xuống bếp. 

    Dì Năm ngừng tay giặt quần áo, ngước nhìn tôi cười âu yếm. Tôi cũng cười.

    Dì nói: 

    - Bằng lòng nhá! 

    Tôi hiểu điều Dì muốn nói, nhưng vẫn làm bộ: 

    - Bằng lòng cái gì cơ ạ? 

    -Còn cái gì nữa. Mấy hôm nay con bần thần bứt rứt hết ra lại vào, như người cuồng căng? Làm Dì vừa lo ngại vừa tội nghiệp con. 

    Tôi né tránh: 

    -Dì thấy con hay không? 

    -Hay. Dì Năm nói giọng bỡn cợt.

    -Hay thiệt đó chớ Dì. Con có linh tính đúng lắm. Con biết mà. 

    -Ừ. Con tài thiệt. Mai mốt chắc nắng to à nghe 

    Tôi nghe bừng nóng ở hai mang tai. 

    -Dì cứ chọc con không à. 

    Dì Năm cười lớn: 

    -Nào bây giờ tính sao? 

    -Con thực tình không hiểu thưa Dì. 

    -Con tiếp tục ở đây với Dì hay về Saigon với Chất. 

    -Về Saigon! (Tôi gằn giọng). Không, chẳng đời nào.

    Tôi ngồi xuống bên cạnh Dì Năm, nói tiếp: 

    -Có bao giờ Dì phải chạy trốn ngay cả niềm mơ ước của mình chưa Dì? 

    -Ra sao mới được chứ. Chuyện chi đến đổi phải chạy trốn chính mơ ước của mình một khi nó đến. Con cứ quá đáng hoài. 

    Dì Năm nói giọng thở ra muốn gạt đi.

    Tôi lắc đầu: 

    -Nào có phải con muốn vậy đâu. Ai đời muốn vậy bao giờ. Tại hoàn cảnh mà.

    Tôi nói và thấy nước mắt đã lại ròng ròng chảy xuống.

    Dì Năm nhăn mặt:

    -Con cứ vậy hoài Chất nó buồn. Con phải biết vậy chứ. Nó lặn lội đến đây tìm con. Lẽ ra con phải vui vẻ, mừng rỡ mới đúng. Đằng này con cứ khóc không.

    -Vâng. Con cũng vui lắm. Con cũng mừng lắm chứ Dì. Mà con cũng không hiểu sao con lại khóc nữa.

    -Hai đứa có chuyện gì hả?

    -Không Dì. Không có chuyện chi hết. Có lẽ tại lâu ngày con không được khóc nên con thèm và lúc khóc được thì khóc luôn, dù chẳng có chuyện gì.

    Giữa lúc đó, Chất trở về. Chàng đi rót cho tôi một ly nước trà. Đặt lên mặt table de nuit, Chất nói:

    -Em uống một chút cho nó khỏe.

    Tôi nhìn chàng cười.

    Dì Năm cũng cười:

    -Điệu này sắp hết mưa đây. Mai nắng to rồi.

    -Con cũng mong vậy. Chất ngay tình.

    Dì Năm lắc đầu.

    -Không. Dì muốn nói khóc hoài thế này thì trời còn nước đâu nữa mà mưa.

    Chàng cười lớn. Tôi mắc cỡ nắm lấy tay Dì Năm.

    Mưa vẫn không có một dấu hiệu đổi khác nào.

    Dì Năm đứng lên:

    -Thôi cho Dì xuống bếp, còn làm cơm ăn chứ. Tôi e ngại nhìn theo Dì rồi cúi xuống.

    Dì Năm nói tiếp:

    -Không được nghĩ vơ vẩn nữa à nghe. Để Dì xuống bếp dọn cơm lên cho mà ăn.

    Ăn xong bữa cơm thì trời bỗng nhiên như hừng nắng và mưa thưa hạt, như muốn dứt. Chúng tôi cũng mừng rỡ và mong mỏi như nỗi mong mỏi của người ngồi tù được trả lại tự do.

    Tôi cảm thấy khỏe khoắn trong người mặc dù suốt bữa tôi không ăn được hơn một thìa cơm.

    Tôi phụ với Dì Năm dọn dẹp trong lúc chàng ra nhà ngoài hút thuốc.

    Lúc thấy tôi dưới bếp lên, chàng ngước nhìn tôi cười. Không bảo, chúng tôi cùng ra hiên.

    Ngồi thõng chân nơi bậc thềm, tôi nói:

    -Anh ở đây được bao lâu?

    -Hai hay ba ngày.

    -Không thể lâu hơn?

    -Có những việc người ta không thể giải quyết trong một vài ngày.

    -Em có đòi gì đâu. Thế này, đã là quá đủ. Em chỉ muốn nói là làm gì có xe cho anh về thành phố.

    -Có. Xe nó sẽ trở lại, trong vòng hai ngày nữa và nó sẽ dừng ở chỗ anh đã xuống.

    -Anh có dặn trước?

    -Tất nhiên.

    -P. sao?

    -Em muốn nói gì?

    -Sức khỏe. Sự liên hệ giữa anh và P. thí dụ.

    -À. P. vẫn thường.

    -Không có gì đổi khác.

    -Làm sao không. Bao nhiêu năm qua. Quá nhiều đổi thay và biến cố. Hãy tạm dùng chữ đó. Nhưng…

    -Nhưng sao?

    -Nhưng đó là những điều mà anh nghĩ rằng em không muốn nghe.

    -Đúng thế. Em không muốn nghe.

    -Dù nó là sự thực?

    -Vâng. Dù nó là sự thực. Bởi hai lý do. Một là có những sự thực làm mình choáng váng. Hai là cũng có những sự thực anh sẽ không đủ can đảm nói ra với em. Em không muốn dồn anh tới chỗ phải nói dối.

    -Em mang nhiều mặc cảm quá.

    -Có thể anh nói đúng. Tuy nhiên, nếu anh muốn lừa dối một người như em, đó là điều quá dễ dàng. Cho đến bây giờ em vẫn không hề biết ai khác hơn anh. Nói một cách khác thì em đã chọn nơi chốn cho sự chết của mình. Nếu anh làm nên những giấc mơ trong em, thì anh cũng là một mộ địa, nơi chôn vùi những giấc mơ kia và ngay chính cả thân xác em.

    -Chúng ta không thể làm gì khác hơn cho nhau sao?

    -Có chứ. Nhưng với em thì không.

    -Sao không?

    -Không sao hết.

    -Mà thôi. Không nói chuyện đó nữa. Anh muốn hỏi em tại sao bỗng dưng em biệt tăm mấy năm vừa qua?

    -Anh muốn tìm hiểu lý sự đau đớn cùng cực của một người khác?

    -Cũng không hẳn. Anh tìm em khắp nơi.

    -Ai chỉ anh đến đây.

    -Một tình cờ. Một may mắn.

    Chất cầm lấy tay tôi. Bàn tay chàng hâm hấp.

    Tôi run rẩy muốn rút tay về:

    -Anh.

    -Anh vẫn lắng nghe đây.

    -Bỏ em ra. Em sợ lắm. Đừng làm vậy.

    -Có gì đâu. Em có vẻ khó chịu?

    -Không, em sợ. Em run quá. Anh không thấy sao?

    -Hy vọng chiều nay hay ngày mai trời có nắng.

    Chàng nói. Tôi nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn mưa, nhưng trên những cánh lá xòe thấp đã thấy ánh lên một chút nắng yếu ớt.

    Tôi thì không mong mưa hay nắng. Vì mưa hay nắng thì chỉ trong vài ngày nữa, chàng lại rời khỏi nơi này. Bao nhiêu năm bặt chết tin nhau, được gặp trong khoảng khắc rồi lại chia tay. Chất đi là hết. Chất yên lòng. Nhưng Chất đâu có hiểu là sự tìm đến của Chất, đã làm sống dậy trong tôi những tủi hờn đã lắng, những khát khao đã nguội, những mơ ước đã tàn. Trước sau gì, tôi cũng chỉ là một người đàn bà. Nghĩa là tôi cũng có đầy đủ mọi tật xấu. Tôi cũng ích kỷ, cũng tham lam, cũng mưu mô tính toán, liều lĩnh, nếu cần. Chất đã cố tình không để cho tôi yên. Tôi muốn làm người, làm một người cao thượng, dù là để được như vậy, tôi phải tự cải dạng, tôi phải biến thân thành một pho tượng gỗ, thành một khúc cây rỗng ruột. Nhưng Chất đã không muốn để tôi yên bề làm một pho tượng gỗ. Chất muốn tôi khác hơn thế. Chắc rồi tôi cũng phải khác. Những đầu rắn, những nọc độc trong người tôi lúc nào cũng chỉ chờ đợi, âm thầm chờ đợi cơ hội tốt. Phải thế không? Tôi muốn nhìn rõ mặt mình một lần. Cũng nên lắm. Tôi chưa từng nhìn rõ tôi, tám năm qua. Tám năm qua, tôi chỉ thấy cái bóng mình, cái bóng của một hồn xác đã chết. Nhưng liệu rồi tôi có dám vào cuộc chăng? Tôi còn nhiều ràng buộc quá. Tôi còn quá nhút nhát e dè. Tôi chưa hề tự quyết định lấy một việc gì cho đời mình, ngoài việc chạy trốn chính tôi, chạy trốn chính mình, hình như tôi sinh ra để luôn luôn từ chối; lắc đầu chứ không phải để đón nhận, để gật đầu, để mắt mở, ngực căng, tiến tới. Tôi thèm cái cương quyết đến độ gần như quyết liệt của Hòa trong tình yêu với Sinh. Và kết quả là họ đã lấy được nhau. Tôi cũng thèm cả cái lạnh nhạt ơ thờ đến bất nhẫn của Ngọc trước sự khẩn cầu của người mà Ngọc đã từng yêu, sau khi đã chấm dứt. Tôi thèm cả cái liều lĩnh trong dối trá của những người con gái mới lớn trốn nhà, bằng mọi cách để đến được chỗ hẹn với người mình tưởng nhớ. Tôi cho hành động này là một thứ lãng mạn tuyệt vời. Thứ hạnh phúc ngạt ngào nhất, thứ báu vật thiêng liêng của một thời mà trời đã dành riêng cho những người con gái. Vì qua tuổi đó khi đã hết những bước chân run, những bàn tay víu bám, họ sẽ phải chịu biết bao cực nhọc mà số kiếp đã dành sẵn cho những đời đàn bà. Tôi không được hưởng tôi không có được những giây phút của tình yêu thánh thiện trẻ thơ đó. Tôi không có đến cả những nhỏ nhoi nhất mà một người con gái mới lớn, đến với tình yêu, được hưởng. Tôi đã già nua, đã lụ khụ, ngay tự phút đầu của sự sống mở ra, chập chững. Tôi đã đau vùi, đã nghẹn xót, ngay từ những mắt nhìn đầu tiên. Buổi sáng tinh khôi đầu đời mình tôi đã không được nói những lời của chim chóc. Tôi cũng không được nghe những dạt dào của nắng ấm xô đuổi trên cành lá còn đẫm sương mù. Buổi sáng tinh khôi, với tôi đã là một buổi chiều chết. Một buổi chiều của những cơn bão lớn. Một buổi chiều của điềm ứng báo trước cho một tương lai tận cùng khổ nhục, cạn cuối thương đau. Một buổi chiều kinh hoàng trong một chớp mắt, và buổi chiều, ác nghiệt thay đã ở lại trong tôi, mãi mãi cho đến giờ này, khi tôi đã cam đành thất chí.

    Tôi giật mình bừng tỉnh như người vừa qua một cơn mơ ngắn lúc bàn tay Chất, quờ quạng trước mặt. Tôi rúm người khi nhận ra, Chất đã quàng tay qua vai tôi từ lúc nào. Tôi lẩy bẩy gỡ tay Chất.

    Nhưng hình như trong hành động của tôi thiếu phần cương quyết. Cái ngập ngừng run rẩy thấy rõ, nhận ngay khi tôi chạm vào tay chàng. Một đụng chạm ngây ngất đầu đời. Một đụng chạm như luồng điện mạnh chạy suốt qua cùng khắp thân thể làm tôi cứng tê trong một cảm giác lạ lẫm bàng hoàng.

        -Anh. Bỏ tay xuống, anh. Em sợ. Đừng làm vậy anh. Em sợ lắm.

    Chất như không nghe thấy lời tôi. Chàng tiếp tục bấm sâu những ngón tay thỏi sắt xuống vai tôi. Tôi rùng mình, oằn oại. Cảm giác chìm khuất, tan loãng dìu đưa tôi vào một thế giới mịt mù với những bước hụt hẫng, châng lâng.

    Chợt Chất nói.

    -Lại kia đi em.

    Tôi nhìn theo tay chỉ của chàng.

    -Lâu đài?

    -Ừ. Lâu đài.

    -Anh muốn vào đó?

    Chất không trả lời câu hỏi của tôi. Chàng nói:

    -Ai giữ chìa khóa?

    -Dì Năm.

    -Nói với Dì Năm cho anh mượn. 

    -Nói sao?

    -Nói anh muốn thăm tòa lâu đài. 

    - Có gì đầu mà thăm. Căn nhà cũ có nhiều phòng và đồ đạc. 

    - Chính vì cái cũ kỹ đó. 

    Chất đứng dậy. Đi xuống bếp.

    Tôi ngồi lại một mình trên bậc thềm 

    Mưa đã nhỏ nhưng vẫn còn đều đều hạt.

    Hạnh phúc phải chăng chỉ đến trong những giây phút bất ngờ. Và những bất ngờ này, làm nên đời sống. Có lẽ vì thế. Vì những bất ngờ ngắn ngủi đó, mà người ta có thể sống để chờ đợi nó. Tôi không thích mọi bất ngờ xảy tới, dù là bất ngờ của hạnh phúc. Tôi là đứa con gái muốn xây dựng đời mình, tất cả, mọi sự, trên một căn ván vững chắc. 

    Tôi bằng lòng một đau khổ triền miên trùng điệp hơn thứ hạnh phúc thoáng qua, chập chờn, ẩn hiện ở ngoài mình. Ai bảo là trong sự cưng dưỡng đau đớn, nuôi nấng tuyệt vọng âm thầm không có những hạnh phúc riêng? Tất cả là thói quen. Tôi đã tập được cho mình cái thói quen sống ẩn nhẫn, lẩn lút như một con vật bị bỏ quên trong một xó góc tăm tối nhất của đời sống. Tôi sợ ánh sáng. Đã bao năm, tôi quen nhìn bóng tối. Bóng tối, thực sự gần gũi với tôi hơn. Trong bóng lối, tôi có thể mở mắt, mở hết kẽ, nhìn trừng trừng vào tất cả mọi sự vật mù mờ, vào ngay cả khát khao, vào những mơ ước thầm kín, cùng những hận thù, những mâu thuẫn giữa lẽ sống riêng và bổn phận chung, giữa tình cảm và lý trí. Tôi đã chọn lựa thế đứng treo thân, dốc ngược đầu xuống, để làm vừa lòng tất cả. Nếu tôi không ép buộc được ba mẹ tôi, tôi phải chiều theo ý muốn riêng của tôi, để tôi có thể sống những phút tận cùng, thở những hơi thở căng nứt ngực chứa, tắm đẫm thân thể mình những cảm xúc thần kỳ của mùi hơi chàng, của những vòng tay siết, của những cánh môi hôn của… của… Nói gọn là tình yêu, thì tôi cũng không thể, đúng hơn là không muốn ép buộc chàng phải nhượng bộ gia đinh tôi. Tôi không muốn chàng phải khuất phục trước bất cứ cái gì – ai – dù cho kẻ đó là đấng sinh thành ra tôi. Bởi tôi yêu chàng bằng tình yêu, lẫn với niềm tôn kính chân thực.

    Chàng có thể ở dưới thấp, có thể ngang với bùn nhơ, nhưng với tôi, trong tôi, chàng vẫn là một ngọn tháp cao vòi vọi, một ngọn hải đăng, soi cho một con tầu đi về ngàn dặm biển khơi, một cánh buồm, thấp thoáng trong những đêm sương trong những chiều gió nổi, trong những đêm bão lớn, mưa dầm. 

    Chàng phải ở trên chóp đỉnh đó. Vì chàng mang giữ trong người, tình yêu của tôi. Tôi nói. Tình yêu của tôi. Bởi có thể chàng đã không còn yêu tôi. Hay chưa từng yêu tôi.

    Ôi manh cờ buồn bã trên ngọn cao tuyệt vọng. Manh cờ rách nát những tháng ngày lầm lũi, âm thầm. Manh cờ, biểu trưng cho một quốc gia, hay cho một tình yêu thì cũng thế. Nó đã trên ngọn trời. Nó đã rách nát. Nó đã đầy mình thương tích. Và tôi, kẻ đứng dưới chân kỳ đài, không còn hy vọng gì kéo xuống, trong tầm tay mình để vá chắp lại những mảnh tả tơi kia. Không. Không bao giờ nữa. Gió đã nổi. Cánh mây đã bay đi. Một trời vẫn mênh mông nỗi chết. Tôi không còn gì. Dù một chút nghị lực. Tôi thiếu thốn. Tôi yếu mềm. Tôi yếu mềm lắm. Tôi không thể tự tranh giành lấy một chút ánh sáng, một lượng không khí để thở.

    Chất trở lại đem theo một xâu chìa khóa. Chàng lắc lắc, những chiếc chìa khóa va vào nhau, kêu lên, nghe lạnh nổi da gà.

    Chàng hất hàm:

    -Hướng dẫn viên, hoạt động lên chớ.

    -Anh nhất định đòi vào đó?

    -Nhất định thế. Chàng gật đầu.

    -Anh đi một mình đi. Em không đi đâu.

    -Sao vậy?

    Tôi loay hoay tìm chưa ra lý lẽ để biện bác thì dì Năm xuất hiện.

    Giọng dì thật tự nhiên:

    -Con đưa Chất đi sang nhà bên đó chơi. Mưa thế này đâu có đi chơi đâu được. Qua đó một lát đi rồi về ăn cơm.

    Tôi đành phải đứng dậy vì không muốn dì Năm nghi ngờ hay thắc mắc.

    Những cơn sóng lạ lẫm, ngại ngùng lại lùa chạy giạt rì rào khắp thân thể tôi. Cùng mùi hơi chàng, mùi thuốc lá lẫn trên tóc, lẫn trên vai, những bước chân lâng lâng ngây ngất như một kẻ đi trong cơn say váng vất. Chàng huýt sáo miệng, nho nhỏ, một bản nhạc tình cũ. Khuôn mặt chàng lắng xuống, một miền xa vắng chua xót, nổi lên ở những nếp nhăn trên vầng trán và đôi gò má cao. Nghĩ tới lúc chàng sẽ rời khỏi đây và không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau một lần nữa, tôi buột miệng:

    -Em nghĩ thà anh đừng tìm kiếm và chúng mình đừng gặp gỡ nhau.

    -Em muốn thế? Chàng ngừng bước, nhìn vào mặt tôi.

    Tôi cúi xuống đáp nhỏ:

    -Vâng.

    -Nhưng anh đã đến. Chúng ta đã thấy nhau. Một lần. Một lần có thể là vĩnh viễn xa nhau, và cũng có thể là đánh dấu cho một cuộc đổi đời. Em ân hận chăng nếu sự thể sẽ diễn ra như vậy? 

    - Em sợ không được như vậy, chứ không phải là ân hận. Em nghĩ lúc chúng mình lại xa nhau. Chúng mình lại bắt đầu nữa, cho tám chín năm sẽ tới. Lần này, chắc em sẽ không còn đủ nghị lực chịu đựng. Em kiệt sức rồi.

    - Nhưng cũng vẫn phải sống. 

    - Sống. Có nhiều cách lắm. Sống như chết rồi hay còn hơn chết rồi cũng là sống. 

    - Em lại nói bậy rồi đó. 

    Tôi không trả lời chàng.

    Chúng tôi bước vào vòm cửa của tòa lâu đài. Con đường giữa, mở ra, mờ mờ sau hai cánh cửa lớn chạm trổ và lồng kính, sâu hút như con đường tưởng tượng dẫn tới địa ngục. Mùi mốc ẩm xông lên. Cái mốc ẩm của những ngôi nhà sau nhiều năm tháng không có người ở.

    Chúng tôi cũng ngại ngần không dám bước tới. Chàng loay hoay lần mò tìm nút bật điện trên hai cột xi măng vuông.

    -Em biết chỗ bật điện không? 

    -Không, anh. 

    -Em chưa vào đây bao giờ? 

    -Vâng chưa. Chỉ có Dì Năm vào, mỗi khi ông giáo sư Pháp tới ở mà thôi.

    -Ông ta đâu? 

    -Ông ta về Pháp rồi. 

    -Cái nhà này trả lại? 

    -Không, thuộc ngôi trường trung học Pháp ở thị xã. Họ thuê dài hạn của một người chủ Việt Nam.

    Chợt chàng reo lên: 

    -Đây rồi.   

    Cùng với tiếng reo của chàng ánh sáng lóa lên trong khoảnh khắc của chùm đèn lồng treo lủng lẳng ở giữa lối đi. 

    Mấy con dơi chắc cũng bị chói mắt, bay chập choạng từ góc này, chui vào một góc khác. Tôi nhìn thấy chiếc cầu thang bên tay trái. Chiếc cầu thang dẫn lên tầng lầu thứ nhất. Nơi tôi biết, có một phòng bỏ hoang, không có người ở. Nghe đâu căn phòng, ngày xưa của cô con gái người chủ lâu đài. Cô ta chết trong đó cùng người yêu của cô ta, một thanh niên thuộc giai cấp khác. Có lẽ đó là lý do chính khiến cha cô ta bỏ tòa lâu đài dời gia đình xuống miệt dưới. 

    Tôi bảo chàng: 

    -Anh muốn lên trên này không? 

    -Đi. Anh muốn xem hết ngôi nhà.

    -Không. Em muốn anh đưa em lên căn phòng số 5. 

    -Phòng số 5. 

    Chàng lặp lại giọng ngạc nhiên.

    Tôi vội đáp.

    -Em nghe dì Năm nói. 

    -Nói sao? 

    -Phòng số 5. Trong đó, có hai người đã chết, cùng lúc.

    -Thuộc gia đình này? 

    -Một người thôi. Con gái. Họ còn để nguyên đồ đạc của cô ta, không thay đổi gì hết.

    -Thất vọng vì tình? 

    -Sao anh đoán vậy? 

    -Dễ hiểu. Thường chỉ có những thất vọng vì tình yêu mới hay đưa người ta đến chỗ ấy. 

    -Người ta còn có thể thất vọng, quẩn trí về nhiều cái khác nữa chứ. Tôi cãi.

    -Đồng ý. Nhưng hiếm hoi lắm. Những trường hợp tự tử. Người ta có từng thời kỳ, từng hạn tuổi để dễ chết cho một cái gì đó. Người ta có thể chết vì danh vọng tiền bạc, nhưng thường chỉ ở những năm bốn mươi trở đi. Tuy nhiên… 

    -Sao? 

    -Bây giờ thì ngoài những phân định tạm thời đó, chúng ta có chung một cái để mà chết. Cũng bất đắc kỳ tử. Cũng tức tưởi. Dù không tự tìm đến.

    -Cái gì? 

    -Chiến tranh. 

    Tôi bật cười nhỏ.

    Chất nắm tay tôi trên những bậc thang gỗ có lót thảm bằng cói. Tấm thảm dài liền chảy xuống như một giải lụa mềm mầu sẫm, đã bạc màu và có nhiều chỗ rách nát.

    Chúng tôi lên hết cầu thang thì nhìn thấy khoảng trời mưa ở bên ngoài, dưới thấp, qua một cửa sổ kính đục.

    Hành lang lại mở ra với hai dãy phòng im lìm. 

    Trên cao mùi ẩm mốc ít hơn, nhưng tôi lại nghe thấy lạnh và tanh tanh trong những lượng không khí hít vào.

    Tự nhiên tôi nép sát bên chàng như cảm thấy mình đang bị một đe dọa kỳ dị. Chung quanh tôi như đang có nhiều con mắt âm thầm, bí mật theo dõi. 

    Tôi bắt đầu thấy ân hận vì sự liều lĩnh của mình.  

    Gió từ cuối hành lang, chỗ nhìn ra một cái ban-công ngó chếch vào một lòng đường, thông thốc thổi tới. Tôi đứng ở đầu này mà còn thấy run rẩy, muốn ngã. 

    Chất chừng đoán được tâm trạng tôi giao động. Chàng nắm chặt tay tôi, thận trọng bước từng bước ngắn. 

    Không khí nặng nề, im lặng chập chờn giữa hai chúng tôi. Chất ngừng lại ở căn phòng tôi nói có hai người đã chết ở đó. Chàng tìm chìa khóa và tra vào ổ. Tiếng tách tách của thỏi sắt trong ổ khóa bật trở lại nghe lạnh buốt từng đốt xương. Tôi muốn đưa tay cản chàng, nhưng không được gì toàn thân tôi đang muốn cứng chết. 

    Chất đẩy cửa. Căn phòng mở ra mờ mờ với ánh sáng yếu ớt. Nhưng nó cũng không đến nỗi như trí tưởng tượng của tôi. Khi căn phòng được sáng soi bởi những ngọn đèn gắn dính hai bên tường với những cái chụp kiểu cổ, trông xa như bằng xà cừ mầu gụ cũ, nó đã không ghê rợn đến như tôi tưởng tượng. 

    Chất bước vào. Tôi còn tần ngần ở ngưỡng cửa. Chàng quay lại, thấy vậy, kéo tôi vào luôn.

    Chàng nói: 

    -Tay em lạnh quá. 

    -Vâng. 

    -Em sợ? 

    -Không hẳn. Nhưng em buồn.   

    -Vì nghĩ tới chuyện mình? 

    -Tại sao? 

    -Tại thấy người ta! 

    -Em vẫn chưa nói rõ với anh về người đàn ông đã chết trong căn phòng này. 

    -Đó là một người mắc bệnh nan y. 

    -Hủi. 

    - Không. Lao.

    -Đó là lý do của tuyệt vọng? 

    -Thêm  một điều nữa, người thanh niên đó có gia đình.

    -Cô gái kia biết rõ?

    -Biết.

    -Mà vẫn sống?

    -Vâng, vẫn sống cho đời cô.

    -Sao cô ấy dại vậy?

    -Còn em thì khôn?

    -Em dễ mủi lòng quá.

    -Mà không đúng vậy sao?

    -Không. Chuyện mình khác.

    -Em vẫn tự dối mình như vậy.

    -Đúng, em phải nghĩ thế.

    -Anh biết em nghĩ gì mà nói đúng.

    -Em nghĩ về chuyện chúng mình.

    -Mơ hồ quá. Lúc nào em chẳng nghĩ đến chuyện mình.

    -Thế em nghĩ gì?

    -Em nghĩ em không được như cô ấy.

    -Là sao?

    -Sống hết, sống trọn với sự “ngu dại” của mình. Rồi.

    -Rồi sao?

    -Rồi chết.

    -Em nghĩ bậy hoài.

    -Không, em nói thật. Thà như vậy, để không ân hận. Không hối tiếc gì hết. Nhưng suốt đời, suốt cuộc tình mình, em chưa một lần dám sống. Khi tuyệt vọng, người ta thường hành động theo cách thế tuyệt vọng của mình. Nhưng em thì không. Em không làm được cả việc đó. Em chìm lần-chìm lần trong đó.

    -Còn anh.

    -Anh là hòn đá nặng. Anh không là cái phao. Em không thể nổi lên với tảng đá nặng đeo trên cổ mình. Chất thở dài. Chàng ngồi vào chiếc ghế salon, kê góc trái, phía cửa sổ, có tấm màn vải tím rũ xuống. Trên chiếc bàn nhỏ, người ta còn để nguyên những cuốn sách, những vật dụng của hai người đã dùng, trước khi chết. Một bao thuốc không. Một chiếc kẹp tóc nhỏ. Vung vãi ở quanh đó, những mảnh nhỏ của tấm ảnh bị xé vụn.

    Trên tường, ngước cao, đối diện với tủ, tấm ảnh người thiếu nữ, còn trẻ, rất trẻ. Có thể ảnh chụp trước khi chết nhiều năm. Khoảng mười sáu tuổi? Mắt lớn. Nhìn thẳng. Tóc xõa tự nhiên. Miệng hơi chúm. Sống mũi thanh, hai cánh ở một cách ngây thơ mà nghịch ngợm. Vầng trán lòa xòa những sợi tóc mảnh. Nghĩa là trong ảnh, dù nước thuốc đã mờ, người ta không thể nghĩ là người con gái dễ thương và nhu mì chết yểu. Càng không thể nói, cô ta đã có những ngày đầu đời, giông bão-những ngày cuối kiếp, khép nhanh-gọn-sắc như một nhát dao. Một chớp sáng lóe nhanh và tắt phụt.

    Chất cũng nhìn lên. Tôi có cảm tưởng như cô ta muốn cười với tôi. Gượng cười thôi, không thành nụ cười. Vô tình, chúng tôi cùng quay lại, nhìn nhau sau đó.

    Đôi mắt chàng tối sâu, u uẩn. Tôi buông tay. Một xúc động lạ lùng, chợt lùa dạt tới tâm hồn, làm thân thể tôi mềm nhũn, tinh thần tôi trùng lại. Trí óc thênh thang một nỗi hờn tủi xót xa -Không rõ thương mình hay thương người -Không rõ thương chàng, hay thương chính tình yêu của mình và như thế, nước mắt tôi, tự nhiên, thật tự nhiên, nhỏ xuống.

    Tôi đứng trước chàng và chỉ nhận ra, tất cả những sự kiện trên khi chàng nắm tay, kéo tôi ngã xuống.

    Dầu sao thì ngay khi gặp lại chàng, tôi đã linh cảm rằng những gì tôi muốn giữ, đã đến lúc không thể giữ, những gì tôi muốn giấu, đã đến lúc không thể giấu. Đến lúc. Tôi muốn nói đến sự yếu đuối, sự kiệt lực hoàn toàn của mình trước những dồn dập của một thiết tha, thèm khát sự sống. Tôi muốn nói tới những ngọn lửa âm ỉ trong tôi bao năm -Phút giây bừng cháy. Tôi muốn -Không phải nữa. Tôi không thể chối từ, không thể cương quyết mãi trước tình yêu, trước sự sống. Tôi không còn đứng vững giữa những cái muốn dành riêng cho Chất. Không vội vàng, không gấp gáp, không chóng mặt, không tối tăm, trong sự rơi ngã của mình. Tôi biết, tôi đang từ từ lăn xuống một vực sâu, từ lưng chừng một con dốc thẳng. Tôi biết, tôi đang trở về bằng những chân thật nhất, của trái tim tôi -Không mặt nạ không phấn son. Những bước chân đã vượt khỏi mọi kiểm soát của lý trí -tư tưởng -tự ái -gia đình -danh dự -tương lai. Trước tình yêu, mọi sự đều vô nghĩa, Nó là tất cả. Dù tất cả, được hiểu như một thiên đàng hay một địa ngục.

    Tôi ngã rơi xuống vùng hơi thở chàng ngái ngát. Tôi lăn đi, nhiều vòng trong tay chàng xa lạ, buồn bã. Tôi nhắm mắt, trong lúc mắt chàng cháy lửa hận thù, cừu oán. Tôi chết đi. Tôi ngất đi. Tôi vô tri, vô giác trong thân thể chàng thảm hại, phản trắc.

    Tôi ở đâu? Tôi đã xa lạ tôi rồi. Chàng ở đâu? Chàng đã ở ngoài tôi, từ bao lâu rồi.

    Nếu em có giết được anh, thì cũng chỉ là sự day cứa hay đâm rạch trên một cái xác, đã chết. Sự giết chết, không còn nghĩa gì, khi đó là sự giết chết lần thứ hai, một cái xác đã chết.

    Nhưng mà anh. Chính anh. Anh đã giết em -Một lần nữa. Một lần nữa, trên cái phần hồn mong manh còn lại của một quá khứ xa xăm.

Tôi vịn tay vào vai ghế, nhỏm người ngồi dậy. Tôi gọi vọng Kiệm ở trong bếp. Kiệm là con nhỏ giúp việc cho Ngọc, mẹ Kiệm ngày xưa làm cho gia đình Ngọc. Sau khi Ngọc xin đổi ra ngoài này, mẹ Kiệm cho Kiệm đi theo Ngọc và nhờ Ngọc trông nom giùm. Kiệm giúp việc vặt trong nhà cho Ngọc, chiều Kiệm đi học và tối về Ngọc chỉ thêm. Tuy là người giúp việc nhưng tôi biết Ngọc thương Kiệm như em ruột của mình, ngược lại Kiệm cũng quyến luyến Ngọc lắm.

    Nghe tôi gọi, từ dưới bếp Kiệm vội vàng chạy lên ra ngoài hàng hiên:

    -Cô gọi cháu?

    -Ừ. Kiệm có bận gì không?

    -Không, thưa cô. Cháu lặt rau rồi, gạo cũng vừa vo xong.

    Tôi quờ quờ tay, tìm tay nó.

    Kiệm đưa tay cho tôi nắm. Bàn tay nó nhỏ, mảnh, mỏng và mát rượi như một miếng lá chuối còn non. Tôi đứng dậy.

    -Kiệm cho cô ra bãi nha.

    -Dạ. Để con đưa cô đi. Nhưng trời nắng rồi đó cô.

    -Ừ. Cô biết. Nắng nhiều không Kiệm?

    -Đầy cả vườn. Đầy cả đường. Đầy cả những ngọn cây.

    -Thế hả Kiệm. Còn trời.

    -Trời sao cô?

    -Trời có nhiều mây không?

    Kiệm im lặng một lát, chắc nó ngó lên bầu trời:

    -Không cô. Trời trong lắm. Xanh mầu xanh ve chai đó cô.

    -Có mầu trắng chứ?

    -Dạ có, ít thôi cô. Từng đám nhỏ.

    Tôi sửa lại gọng kính đen:

    -Thôi mình đi, Kiệm.

    Đi bên Kiệm với những hình ảnh của một buổi sáng có nắng lớn, bầu trời cao, xanh thẳm, một vài cụm mây trắng, tôi nghe lòng mình buồn. Cái buồn thảm lắng chìm trong sự tối tăm của bóng đêm trùng trùng, lớp lớp.

    Kiệm cầm tay tôi. Chúng tôi bước xuống lòng đường. Tiếng xe ngựa lóc cóc đến từ xa. Nghe và nhận được, nhưng tôi vẫn hỏi Kiệm:

    -Xe ngựa phải không Kiệm?

    -Dạ xe ngựa. Một con ngựa.

    -Bãi sao Kiệm?

    -Dạ bãi vắng, cô.

    Chợt giọng Kiệm khác đi. Nó nói ngập ngừng:

    -Cô. Cô à?

    -Gì Kiệm?

    -Cháu thấy cô đẹp lắm, da cô trắng, mặt cô đầy đặn, phúc hậu. Mà sao…

    -Mà sao cô mù phải không?

    -Dạ… Dạ… cháu xin lỗi cô cháu không dám nói vậy.

    Tôi mỉm cười, nắm chặt hơn bàn tay nhỏ bé của Kiệm, mà nước mắt tự dưng ứa ra.

    -Cô à.

    Tôi giữ giọng bình thường:

    -Gì Kiệm?

    -Cô có giận cháu không?

    Tôi buông tay đặt trên vai Kiệm. Tay tôi chạm vào mái tóc ngắn của Kiệm. Những sợi tóc tôi nghĩ rằng mềm và mượt óng:

    -Không Kiệm à. Cô thương Kiệm lắm. Kiệm biết chứ. Cô đâu có ai. Ngoài cô Ngọc và Kiệm. Tôi cảm tưởng dường như vai Kiệm rung rinh. Chắc Kiệm xúc động với lời nói của tôi.

    Chúng tôi bước lên hè, vào bãi cát. Trời mát. Chắc là chúng tôi đang đi trong bóng rợp của những hàng cây sum suê cành lá cổ thụ.

    Tôi bảo Kiệm đưa tôi tới băng ghế đá mà hàng ngày tôi vẫn ngồi.

    -Kiệm ngồi đây với cô một lát rồi hãy về nhà nhá Kiệm.

    -Dạ

    Kiệm ngoan ngoãn ngồi xuống. Tôi bảo Kiệm xích gần tôi hơn nữa. Mái tóc Kiệm ngang mặt tôi, mùi tóc ngái và hương thơm của tuổi nhỏ còn nguyên vẹn làm tôi bùi ngùi nhớ đến những ngày ấu thơ của mình. Thôi, tất cả đã hết. Đã xa rồi. Xa quá rồi. Hỡi mẹ. Mẹ dấu yêu của con. Xa quá rồi. Đã hết rồi. Hỡi Chất của em. Những giây phút cuối đời này cũng không có anh. Anh yêu dấu. Anh còn sống hay đã chết? Anh đang ở một chốn nào? Một nơi nào? Anh biết không? Em sắp sửa giã từ cuộc đời này. Em đã chọn một lần. Đằng nào cũng một lần về địa ngục.

    Kiệm cầm tay tôi lay nhẹ.

    -Cô ơi.

    -Ừ. Cô đây.

    -Cháu về làm cơm nha cô.

    Tôi muốn giữ Kiệm. Tôi muốn có một ai đó, bất cứ kẻ nào, ở bên cạnh tôi, trong những giây phút cuối còn sót lại này, vì tôi đã quyết định… Nhưng mặt khác, tôi lại không dám, sợ Kiệm nó sinh nghi. Tôi xoa đầu Kiệm:

    -Ừ. Thôi Kiệm về đi. Lát nữa đừng ra đón cô nha.

    -Sao vậy cô?

    Tôi nói dối:

    -Hôm nay cô mệt trong người. Chắc cô không ăn cơm đâu.

    -Nhưng cô cũng phải về nhà nghỉ chứ. Ngồi hoài ở đây sao?

    -Ừ. Cô phải về chứ. Làm sao ngồi hoài đây được.

    Chữ “phải về” dội lại trong óc tôi, như một hồi chuông báo tử thống thiết, ngân dài.

    -Thế nào cháu cũng phải đón cô. Một mình cô làm sao qua đường được.

    -Được Kiệm à. Cô nhớ đường mà.

    Kiệm đứng dậy. Nó vẫn còn nắm tay tôi. Chợt nó kêu khẽ:

    -Trời. Sao, sao cô khóc?

    Tôi đưa tay quệt ngang má, cười:

    -Đâu có. Cô đâu có khóc. Cô chỉ hơi mệt thôi.

    -Không. Cô khóc thiệt mà. Cháu thấy. Cháu thấy nước mắt cô.

    Tôi vẫn ngượng cười, lắc đầu:

    -Không phải đâu. Chắc tại gió làm cô chảy nước mắt đó.

    Kiệm nói đúng. Tôi khóc, từ phút nào, nhưng chính tôi không biết. Tôi chỉ nhận ra những giọt lệ lăn trên má khi Kiệm kêu lên mà thôi.

    Kiệm dùng dằng. Chắc nó không thể tin rằng gió có thể làm cho tôi chảy nước mắt.

    Tôi phải trấn tĩnh Kiệm:

    -Thôi, Kiệm, Kiệm về đi. Cô không buồn đâu. Cô đang vui. Cô vui vì lúc nãy Kiệm khen cô đẹp. Kiệm nói Kiệm thương cô mà Kiệm có thương cô thiệt tình không?

    Kiệm ngồi quỳ gối dưới chân tôi. In là nó ngả đầu vào lòng tôi:

    -Cháu thương cô lắm, thương thiệt mà cô. Cô không tin cháu sao?

    -Tin chứ. Cô cũng thương Kiệm lắm. Mà, kìa Kiệm về đi. Muộn rồi.

    Kiệm vẫn ngập ngừng:

    -Cháu phải về làm cơm nhưng lát nữa cô cho cháu ra đón cô về nhà.

    Tôi gật đầu cho qua chuyện:

    -Ừ. Lát Kiệm đón cô về. Mà trễ trễ đó nghe Kiệm.

    -Vâng, cháu sẽ ra trễ.

    Kiệm buông tay tôi ra. Tất nhiên tôi không nhìn thấy Kiệm, nhưng nghe được tiếng chân rời xa của nó. Tiếng chân xa đi, như những gần gũi cuối cùng của đời tôi đang từ từ chấm dứt. Tôi cố xóa bỏ những ý nghĩ lộn xộn trong đầu, để bình thản chờ đợi quyết định. Tôi lần tay trên ngực mình để thấy lưỡi lam mà tôi đã giấu được từ mấy hôm nay. Cái lưỡi lam tôi đã nhờ Kiệm mua ngoài phố để gọt ổi. Cái lý do cần một chiếc lưỡi lam để gọt mấy trái ổi hay dăm quả cóc không đủ vững, đối với một người đã mù lòa như tôi. Nhưng Kiệm quá nhỏ. Nó không thể nghĩ xa hơn cũng như không thể suy luận được rằng tôi sẽ dùng lưỡi dao ấy cho một việc khác. Kiệm tin rằng tuy không thấy đường, tôi vẫn có thể sử dụng lưỡi dao mỏng kia trong việc gọt bỏ cái vỏ ngoài của một loại trái cây nào đó, tôi làm được việc ấy.

    Tôi nghe nắng ấm ở hai má nhưng con gió chạy qua những cành lá bàng rì rào. Sóng chừng đã dịu cùng với mặt trời cao.

    Tâm hồn tôi chĩu nặng như chất chứa tầng tầng những lớp mây ẩm đầy hơi nước. Những tầng mây đủ đầy cho một cơn mưa dầm dề. Những cơn mưa tầm tã, muộn phiền không nguôi của những ngày nào trên cao nguyên.

    Tôi về đây tính ra đã hơn một tháng. Hơn một tháng tôi sống trong sự cắt đứt, đoạn tuyệt với tất cả mọi liên hệ thân tình máu mủ. Hơn một tháng cho một cuộc đi đày, một chạy trốn, một sửa soạn êm ái cho sự nằm xuống. Sống trong đùm bọc thương yêu đến chảy nước mắt của một người bạn gái, tôi linh cảm thấy mình không thể kéo dài thêm nữa sự sống tối tăm này. Không còn gì để tha thiết. Tôi vẫn nghĩ thế. Tôi sống thêm một thời gian ngắn nữa không phải là còn ham tiếc hay trông mong một phép lạ. Không. Tôi còn sống thêm cho đến ngày hôm nay, vì tôi muốn viết cho xong cuốn nhật ký của đời tôi. Cuốn nhật ký mở ra từ ngày tôi gặp chàng. Tôi không thể trả ơn chàng, đã cho tôi một tình yêu, hay nói một cách khác, đúng hơn, đã giúp tôi, nhận thấy, nhìn ra tôi, trong một trái tim rung động, trong tình yêu của chính tôi, bằng sự nằm xuống với nhiều tai tiếng và liên lụy để lại cho chàng. Tôi muốn biện minh, muốn nói một lời nói dài, muốn thở một hơi thở cuối, soi tỏ và giải mở đến tận ngách ngõ những bí ẩn “nếu có thể gọi được như vậy” vây quanh cuộc tình và cái chết của tôi. Tôi muốn nói, muốn nói tiếng nói cuối cùng, và hy vọng rằng tiếng nói cuối cùng của tôi, sẽ giúp cho mọi người tìm ra được tông tích chàng. Tôi vẫn không tin rằng chàng đã chết. Chàng đã mất tích. Tôi vẫn tin, chàng ở đâu đó, một chỗ ẩn nào, trên mảnh đất Việt Nam này. Điều mong mỏi thầm kín nhất của tôi, có lẽ là để L đứa con gái của chàng, có với P. sẽ tìm ra tông tích của bố. Tôi không biết rồi đời L. sẽ ra sao, khi P. đi lấy chồng, khi Chất bị báo cáo là mất tích. Tất cả mọi nỗ lực của tôi, nhắm tìm cho được chàng, hay ít ra có những chi tiết liên quan đến chàng, để từ đó L. có thể tiếp tục công việc tìm kiếm mà tôi đã tạo được những chi tiết làm nền.

    Tôi lấy lưỡi lam ra vuốt vuốt hai cạnh mỏng. Thép lạnh làm tôi rùng mình. Cái giây phút cận kề tiếp giáp với sự chết, cho tôi nhiều ý nghĩ lộn xộn, chua chát, bùi ngùi mà cũng thật nhẹ nhàng, thanh thản. Tôi nghĩ đến Ngọc, không biết nó có làm theo đúng ý tôi muốn in bằng mọi cách ngăn chặn sự khai thác của báo chí. Tôi muốn gia đình tôi cũng như mọi người thân, quen không hay biết gì về chuyện này hết. Trong lá thư viết nguệch ngoạc với sự mù lòa của mình, tôi có dặn Ngọc cặn kẽ cách làm thế nào để tránh được báo chí khai thác. Tất nhiên ở một cái tỉnh lỵ nhỏ bé này thì một chuyện cỏn con cũng đã đủ ồn lên, huống hồ chi chuyện một người tự vận. Nhưng tôi chắc mọi người, kể cả nhà hữu trách cũng sẽ nhìn việc tự tử của tôi như hành vi tuyệt vọng chán nản của một kẻ tật nguyền không lối thoát. Điều áy náy duy nhất của tôi là nếu Chất còn sống, khi chàng tìm ra manh mối của tôi, và tôi đã vĩnh viễn tan hòa dưới ba thước đất, chắc chắn chàng sẽ bị cắn rứt, giày vò, mặc dù việc làm của tôi không một ai có thể quy trách nhiệm cho chàng.

    Tôi đang miên man với những ý nghĩ mòng mòng quay trong đầu thì một loạt âm vang lạnh, sắc làm tôi nổi da gà bởi đó là những âm vang quen thuộc. Những tiếng động đã khua rền đã dội vang, đã ám ảnh đến cả những giấc mơ trong suốt mấy năm trường đằng đẳng. Tiếng cộc… cộc… lúc đầu còn xa, sau mỗi giây nghe một gần thêm cùng với khoảng cách được thâu ngắn, sự hốt hoảng, ớn lạnh đẩy tôi lên đến cực điểm của sự ghê rợn, hoảng hốt. Vì qua những âm thanh đó, tôi đã nhận ra ai, cái gì. Nhận ra cùng với mường tượng rõ ràng dù mắt tôi đã không thể còn nhìn thấy.

    Cả một khúc phim dài, những ngày tôi sống trong trại cùi miệt biên giới, sống lại, thảm thiết trong tôi với hình ảnh ông Trùm, người thanh niên cụt chân và tiếng sáo mỗi chiều của anh ta..

    Không hiểu sao bỗng dưng tôi lại giấu lưỡi dao lam ra sau lưng, khi tiếng nạng gỗ của người chân cụt lại gần. Tôi nói lượng khoảng cách giữa tôi và anh ta còn chừng bảy bước. Sáu bước. Năm bước… Bước chân ngập ngừng. Tôi nghe được trong tiếng nạng gỗ xuống mặt xi măng chậm và gượng.

    Rồi tiếng chân lại tiếp tục đập nặng sau một giây lát im bặt. Tôi nhận ra là tiếng chân gỗ đó, rõ ràng đang chuyển hướng về phía tôi. Tim tôi thắt lại từng giây, từng phút, tôi muốn ngộp thở. Muốn vỡ bụng, muốn nổ tan từng mảnh vụn tả tơi.

    Và việc đến đã phải đến. Người đàn ông chân cụt ngừng lại, tôi đoán ngay trước mặt tôi, nhờ mùi hơi người và tiếng thở. Tôi nghe trời đất quay cuồng. Biển như cũng ngừng tiếng sóng. Gió trên những ngọn bàng cao như cũng ngừng thổi theo với trạng thái bất động của tôi. Tôi bám chặt hai tay vào thành ghế xi măng lạnh giá. Cơn nóng sốt hâm tôi ở một nhiệt độ cao. Mặt tôi hướng thẳng ra biển. Sau cặp kính đen, tôi cố gắng mở đến đứt kẽ, nhưng cũng không thấy gì hơn, một tấm màn đen bao phủ. Chưa bao giờ, bằng lúc này, kể từ ngày bị lòa, tôi thèm nhìn, tôi cố gắng đến nổi gân, đến bật cả tròng con ngươi -để nhìn -Nhìn. Tôi muốn nhìn thấy -Trời ơi -Kẻ đang đứng chắn ngang mặt tôi mà vô ích. Vô ích thôi -Con. Con đã mù lòa -Con đã vĩnh viễn lìa xa vùng ánh sáng. Con chỉ còn bóng tối -Bóng tối chan hòa -Bóng tối khép phủ kín suốt đời con. Bóng tối kia, chính ra nó đã ôm ấp, đã chân thật, đã ủ giữ hồn con, ngay từ ngày con mới sinh ra, mà con không biết đó thôi. Đừng cố gắng. Đừng bao giờ cố gắng để nhìn thấy ánh sáng, nhìn thấy mặt người. Vì có những nỗ lực, những cố gắng, cho dù bền bĩ, cho dù từ khởi đầu cho đến phút chót cuộc đời, cũng vẫn chỉ là những nỗ lực hoài công. Những nỗ lực vô ích. Không khác hơn bao nhiêu, một đam mê vô ích. Văn chương -là một loại nỗ lực vô ích trên của những sử dụng nó.

    (Những người mù trong ánh sáng, và sự toàn vẹn của đôi mắt.

    Như vậy, con vẫn còn may mắn hơn những kẻ đó vì thực sự con mù lòa, chứ không phải con tỉnh sáng mà vẫn rờ rẫm trong bóng đêm của mặt kia ánh sáng).

    Hình như một tiếng nói nào đó, mơ hồ, của một con người thứ hai trong tôi, rất trầm tĩnh, rất dịu dàng khuyên nhủ tôi như vậy.

    Và tôi thở hắt ra. Mắt nhắm nghiền vẫn bóng tối. Những sẫm đặc, không còn là thứ tối tăm nhờ nhờ nữa.

    Đúng lúc đó, người đàn ông lên tiếng:

    -Cô không nhận ra tôi.

    Tôi đã bình tĩnh trở lại. Tôi nghe rõ giọng tôi, trong veo, thản nhiên như sóng vỗ từ xa, như tiếng gió, lao xao chạy trên những chùm lá bàng:

    -Vâng. Đời sống đã cắt đi của tôi tất cả mọi nhìn lại.

    -Cô không còn trí nhớ.

    -Còn chứ ông. Nếu mất hẳn đã may mắn.

    -Vậy mà cô vẫn không nhận ra tôi sao?

    -Cô có cần tôi nhắc?

    -Không. Ông đừng nhắc.

    -Cô khó hiểu quá. Bao năm mới gặp lại cô. Bao năm nhỉ…?

    Người đàn ông bỏ lửng câu nói, như để trí óc kịp nhẩm tính thời gian. Tôi nói giùm anh ta:

    -Ba năm.

    Người đàn ông reo lên, tiếng nạng xê dịch trên mặt hè, nghe ghê lạnh:

    -Cô nhớ giỏi quá.

    Tôi cười:

    -Thì tôi đã nói với ông, tôi còn trí nhớ.

    -Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng, cần nhớ, thì cô không nhớ.

    -Đúng vậy. Ông nói đúng. Tôi không muốn sống hay đúng hơn không còn thiết sống, nhưng tôi vẫn phải quên, một số điều, lẽ ra không nên quên. Vì sự thực, vẫn không quên.

    -Nghĩa là…

    -Vâng. Nghĩa là vẫn nhớ, trong một trạng thái nào đó hay giấu đi ở một góc cạnh nào đó của tâm hồn mình.

    -Chúng ta sống cho ngày mai, nhưng chết cho ngày đã qua. Cô có nghĩ vậy không?

    -Cũng còn tùy. Cái đã qua, cái sẽ tới (trong mơ tưởng) đều mang một kích thước, một trọng lượng riêng.

    -Dầu sao thì cũng có một điều chắc chắn là cô chọn cái đã qua. Vì cái đã qua ở cô mới là một bóng lớn đủ trùm phủ suốt một đời cô.

    Tôi giật mình trước câu nói của người đàn ông chân cụt vừa gặp lại. Sự sững sờ, sửng sốt làm tôi áy náy không biết có phải y chính là người mà tôi đã gặp ở khu trại cùi miệt biên giới năm xưa, hay kẻ đang đứng trước tôi đây, chính là Chất. Trời ơi. Nếu là Chất, tại sao chàng không nhận ra tôi? Không lẽ tôi đã thay đổi đến đỗi không còn một nét nào cho chàng nhận ra?

    Tôi muốn kêu thét lên. Tôi muốn đưa tay rờ rẫm để tìm lại chút hơi hướm nào đó ở người đàn ông này, để tự đó tôi có thể nhận ra chàng. Nhưng tất nhiên là tôi không dám. Tôi lại tiếp tục nhướng mắt. Những giọt nước mắt sống lại lăn đi, nhẹ nhàng êm ái từ hai hốc mắt tôi, như một thứ bóng tối đục vàng hơi nước.

    -Sao cô không trả lời tôi.

    -Trả lời ông điều gì?

    -Sự sống của đời cô.

    -Vâng tôi sẽ trả lời ông. Nhưng trước khi trả lời, tôi muốn hỏi ông một vài điều.

    -Thí dụ.

    -Nghĩa là ông nhận.

    -Tôi nhận vì tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở một đích điểm mà chúng ta cùng đeo đuổi và ôm ấp.

    -Tôi không hiểu điều ông muốn nói.

    Người đàn ông cười. Hình như anh ta ngả nghiêng hay làm một động tác gì đó, bởi tôi thấy chiếc bóng mờ lay động phất phơ như một tấm màn căng sát ngang mắt.

    Anh ta nói đột ngột:

    -Cô tìm gì trong ba năm qua?

    Tiếng nói rời rẽ, lạnh cứng như những chiếc phi tiêu được ném đi từ tay của một thiện nghệ, phập, phập liên tiếp ghim sâu vào da thịt tôi. Những chiếc phi tiêu bần bật rung theo cơn chấn động cuồng đảo trong thân thể. Bất giác tôi nhắm mắt, đưa tay lên đỡ ngực mình như thể lòng ngực tôi trong chốc lát sẽ tách vỡ làm đôi.

    Tiếng nạng gỗ lại xê dịch trên nền xi măng.

    Tôi chợt nhớ ra là đã để người đàn ông đứng quá lâu.

    Tôi nói:

    -Xin lỗi. Đã quên mời ông ngồi.

    -Không sao. Tôi xin phép cô.

    Người đàn ông nói và ngồi xuống. Tiếng nạng gỗ lại khua chạm vào nhau. Chắc ông ta xếp đôi nạng lại. Tôi nghe được hơi thở khoan khoái và tiếng kêu của cử động vương vai.

    -Cô Mị.

    -Trời.

    Tôi không kịp kềm giữ tiếng kêu thảng thốt của mình.

    -Xin lỗi cô. Người đàn ông nói.

    Tôi lắc đầu, khoát tay.

    -Không. Không sao.

    -Cô kinh ngạc vì sự biết tên cô của tôi?

    Tôi nuốt những ngào nghẹn vừa dâng lên ngang cổ, để cố gắng, với một giọng bình thường, trả lời anh ta:

    -Vâng. Thú thật, tôi rất ngạc nhiên. Tôi kinh ngạc.

    -Tôi e cô sẽ còn kinh ngạc nhiều hơn nữa, nếu tôi nói tiếp với cô, những điều tôi biết về cô.

    Tôi lắc đầu:

    -Mừng rỡ hay đau đớn, sẽ đến sau phút giây của những kinh ngạc đó.

    -Nghĩa là cô bình tĩnh?

    -Vâng tôi đã bình tĩnh trở lại. Và tôi đang lắng chờ nghe ông nói đây.

    -Cô muốn tôi nói về vấn đề gì trước?

    -Tất cả. Tất cả những điều ông biết về tôi hoặc liên quan đến tôi.

    -Nhiều lắm. Và cũng có những điều, tôi không thể nói. Tôi tự không ngăn cấm mình, dù rất muốn.

    -Ông dè dặt quá. Dè dặt là một đức tính. Nhưng với tôi, không nên. Không nên và ông cũng chả cần phải giữ kẽ. Bởi tôi không có người thứ hai bên cạnh đời mình để nói lại. Nhưng mà thôi. Khoan đã. Ông hãy cho phép tôi được hỏi một vài câu về ông.

    -Xin cô cứ tự nhiên. Chúng ta có nhiều thì giờ.

    -Quá nhiều. Quá dư. Nhất là đối với tôi.

    -Cô chả nên nói vậy. Kẻ tật nguyền cũng có tương lai, cũng có những hy vọng riêng của họ. Như tôi.

    -Ông đã biết..?

    -Vâng. Tôi biết. Vừa biết. Khi ngồi xuống.

    -Ông không thắc mắc sao?

    -Dạ không. Tôi vẫn gần bên cô.. Chỉ bẵng đi mất một thời gian. Thời gian cô ở cao nguyên. Tuy nhiên mọi chuyện tôi đều biết. Có điều tôi không ngờ, sự thể xảy ra thảm thiết thế.

    -Tôi thì chưa bao giờ nghĩ nó thảm thiết.

    -Tất nhiên. Vì đó là mặt thực của cô. Nhận trách nhiệm -và bằng lòng với tất cả mọi sự việc xảy đến cho mình.

    -Khi quá mức đàn bà, người ta sẽ thành đàn ông. Phải thế không thưa ông?

    Người đàn ông cười. Tiếng cười. Tiếng cười vỡ trên một khoảng thấp, như dưới tầm một mái hiên mưa. Tôi nghe lòng mình se nhăn giống một mảnh vải cũ không còn cách nào để căng ra cho thẳng.

    Một thoáng sượng sùng chạy ngang chúng tôi.

Tôi loay hoay với hai bàn tay đặt hờ trên đầu gối.

    Tôi nói trong phút giây không suy nghĩ:

    -Ba năm qua, nhiều lần, ông muốn gặp tôi?

    -Phải.

    Người đàn ông trả lời, giọng y thẳng thắn, cứng, nhọn. Y ngập ngừng một lát, xong tiếp ngay:

    -Và cô đã cố tình lẫn tránh, vì chiếc chân cụt của tôi?

    -Ông cho đó là lý do chính đáng?

    -Tôi không cho thế. Nhưng ở hoàn cảnh tôi, bắt buộc tôi không thể nghĩ khác.

    Tôi mỉm cười. (Tôi mỉm cười để y tin chắc thêm là điều đó không đúng).

    -Tôi lẩn tránh mọi người. Không riêng gì ông. Ngay cả ba, mẹ tôi và những người thân khác.

    -Ích gì việc đó?

    -Đàn ông hay có những câu hỏi như vậy. Tôi không thích cái tinh thần luận lý một chiều ấy. Tại sao ông không tự hỏi ích gì khi ông bỏ công tìm kiếm tôi?

    Bây giờ đến lượt người đàn ông cười. Hình như anh ta cố gắng cười thành tiếng để tôi biết.

    -Có chứ. Tôi có lý do riêng của tôi… À, mà chưa phải lúc để tôi nói với cô về cái lý do đó.

    -Tôi cũng không chủ tâm tìm biết. Đó là một cách trả lời. Thế thôi. Mong ông hiểu.

    Người đàn ông chân cụt thở dài. Tôi không nhận được vẻ mặt anh ta. Nhưng qua tiếng thở, tôi có thể mường tượng được khuôn mặt héo hắt của anh ta.

    Tôi nói:

    -Sự tìm kiếm nào cũng làm nên nhiều buồn nản.

    -Không đâu cô. Tìm kiếm là một mặt nào đó của hạnh phúc đằm thắm, của thương yêu nồng nàn, nếu nó có cả từ hai phía.

    -Đời ông đã bao lần có được phút giây hiếm hoi ấy?

    -Chưa một lần. Bởi đời tôi khác. Nhưng cô..

    -Tôi? Sao?

    -Hạnh phúc đã đến, ít nhất từ hướng mà tôi vừa nói.

    -Không hạnh phúc không bao giờ đến với tôi. Hoặc tôi rơi hẫng và chìm nghỉm trong nó. Hoặc nó chụp xuống đời tôi, như một tấm lưới lớn. Và tôi dãy dụa…

    -Cô vùng vẫy để thoát?

    -Không bao giờ có sự vẫy thoát khỏi những chiếc lưới định mệnh. Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi vùng vẫy để mắc vào một cái mắt nào đó trong tấm lưới đó.

    -Trước sau hành động đó cũng vẫn chỉ là một hành động của tuyệt vọng.

    -Đúng. Tuyệt vọng và đau đớn. Nhưng tôi chọn cái mà người ta cho là đau đớn nhất, đó là cái đau đớn của sự đau đớn tự dành lấy cho riêng mình. Ông đừng cười. Có thể tôi điên. Nhưng với tôi, đó lại là cái đau đớn nhẹ nhàng nhất. Êm đềm nhất. Một mình, một mình cho đến phút chót.

    -Và cuối cùng, cô đã nhận ra rằng đó là một lầm lẫn lớn nhất của đời cô.

    -Vì từ chối hạnh phúc?

    -Tôi muốn nói gần như thế. Hay cứ xin tạm hiểu là như thế.

    -Có người cũng đã hỏi tôi một câu gần như vậy. Họ hỏi tôi tìm thấy gì trong sự tự đày ải. Ông biết tôi trả lời sao không?

    -Sung sướng và hài lòng vì đã hoàn toàn tự do chọn lựa. Phải chăng thế?

    Người đàn ông chân cụt đáp.

    Tôi cười buồn, lắc đầu:

    -Không. Tôi nói: Tôi thấy mặt bên kia của hạnh phúc.

    -Là hạnh phúc được nhìn từ phía đối nghịch.

    -Vâng.

    -Rồi người ta nói với cô sao?

    -Người ta bảo tôi khùng.

    Người đàn ông cười ngất. Tôi hỏi sao anh ta lại phá lên cười như vậy. (Tiếng cười lần này vỡ trên cao, càng khiến tôi tưởng chừng như đang được nghe tiếng cười của Chất. Hay chính chàng? Chính Chất. Chất muốn thử một vai kịch trước sự mù lòa của tôi?)

    Anh ta nói:

    -Xin lỗi cô. Tôi cười quá lớn. Tôi cười vì người ta nói về cô sao mà giống ý tôi vậy.

    Ông cũng cho như thế là khùng?

    -Khùng chứ còn gì nữa. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng phải nói rõ hơn, là trước đây kia.

    -Giờ thì khác?

    -Vâng. Giờ khác xưa nhiều lắm. Giọng người đàn ông trầm, lắng đột ngột.

    -Ông cũng lạ. Tôi nói.

    -Chẳng phải vậy đâu cô. Tại tôi đã sống.

    -Những người kia không sống, phải ý ông muốn nói?

    -Không. Không. Thưa cô. (Anh ta nói nhanh). Họ cũng sống đấy chứ. Có thể họ còn sống nhiều, còn suy nghĩ hơn bất cứ ai khác nữa. Nhưng họ..

    Tôi ngắt ngang:

    -Mà thôi. Tại sao chúng ta lại mất thì giờ bàn về chuyện ấy nhỉ, trong khi chính tôi, thâm tâm tôi cũng nhìn thấy là tôi điên. Chỉ có điên rồ mới như tôi thôi.

    -Nhìn và nhận, khoảng cách đôi khi cũng không gần nhau lắm.

    -Vâng. Đôi khi.

    -Cô nói gì?

    -Tôi đang nói về tôi đấy. Mà sao lại cứ về tôi hoài nhỉ. Nói về ông đi.

    -Về tôi?

    -Vâng. Về câu hỏi của tôi mà ông đã né tránh.

    -Đừng. Sao cô lại nghĩ vậy… Trong câu chuyện sự thực không chỉ có cô. Còn nhiều người khác. Cũng có cả tôi trong đó. Tuy nhiên vẫn phải nói nhiều về cô.

    -Vẫn phải?

    -Vâng. Đúng. Vì có những người được sinh ra để soi sáng kẻ khác. Cô là một trong số người ít ỏi ấy.

    -Câu nói của ông chỉ làm tôi thêm buồn.

    -Tại cô luôn cố tình hiểu sai ý tôi.   

    -Ông chỉ tôi cách để nhìn thẳng đi.

    -Cô.

    -Tôi.

    -Phải. Hãy nhìn vào chính mình và trả lời thẳng với tâm hồn mình.

    Tôi lắc đầu:

    -Đó là một thế giới từ lâu tôi ghê sợ. Đó là một vùng hoang vu đã lâu không còn dám đặt chân bước.

    -Cô chạy xa tới một độ nào đó, khi giật mình cô sẽ thấy cô gần nó hơn bao giờ hết.

    -Ông muốn vẽ một đường vòng tròn.

    -Không phải tôi muốn nói đó là sự thực.

    -Cuộc đời tôi không có sự thực. Chỉ có những tự gạt và nhắm mắt để được dối gạt. Do đó, tất cả mọi lập luận xây trên căn bản ấy, đều không đứng vững ngay từ giây phút khởi sự.

    -Tôi tin rằng cô ở ngoài ảnh hưởng của vòng mắt xích?

    -Ông tin cùng tôi không?

    -Cũng rất muốn nhưng không được.

    Tôi nói với anh ta rằng, hiểu theo nghĩa nào, bằng cách nào, thì tôi cũng sẽ ở ngoài chiếc vòng oan nghiệp đó, nếu không muốn nói là đã ở ngoài nó. Người đàn ông bảo, càng bướng bỉnh, càng bảo thủ bao nhiêu, mình càng xa mình bấy nhiêu. Tôi cười thầm. Đã bao giờ tôi muốn về gần tôi đâu.

    -Tôi không thích nhìn lại một lần nữa, những đổ nát, những điêu tàn trong đời mình. Tôi nói:

    Chúng ta sống như những con chuột, trong những lỗ ngách tối tăm. Đời sống ở sâu trong những lỗ ngách đó, và khi chúng ta thò đầu ra ngoài ánh sáng, cái phần chói lòa mà ta thấy, là một đời sống khác, không có ta ở đó. Không phải của ta.

    -Có ai thích. Nhưng cũng có những bất toàn, những chua xót mà bằng cách nào, chúng ta cũng không thể tránh nhìn lại. Ít nhất một lần. Riêng tôi, tôi luôn luôn nhìn lại. Người đàn ông nói. Anh ta hơi ngập ngừng, xong tiếp ngay, như nói với anh ta. Có lẽ tại tôi không có gì khác hơn, những thứ đó.

    Câu nói vô tình của người đàn ông, nhắc tôi lại nghĩ đến Chất. Tôi thành thực:

    -Câu nói của ông, nhắc tôi nhớ đến một người mà tôi cố quên.

    -Tôi có tò mò chăng nếu tôi hỏi thêm cô về người đó.

    -Ông đã biết người đó là ai đâu mà ông hỏi.

    -Tôi biết.

    -Ai?

    -Chất!

    -Ông biết?

    Tôi hỏi, giọng run rẩy, mất hết cả bình tĩnh.

    -Cô bị xúc động?

    -Vâng. Tôi xúc động khi nghe ông nhắc tới Chất.

    -Tôi đã có ý nói trước với cô, nhưng cô không tin, rằng tôi biết rất nhiều về cô.

    Bỗng dưng giọng tôi thấp xuống, người toát lạnh, tôi nói:

    -Bây giờ thì tôi đã tin ông. Tôi van ông, nếu ông có tin gì về Chất, ông nên nói cho tôi nghe. Ông nên nghĩ đến trường hợp tôi, trường hợp của…của một người bị…mù lòa như tôi.

    -Tôi không thể thuật tỉ mỉ từng việc với cô được. Nhưng tôi có thể trả lời từng câu hỏi của cô.

    -Vâng, vậy thì gần đây, ông có gặp Chất?

    -Nếu gặp Chất rồi, tôi đâu có đi tìm cô như thế này. Tất cả cố gắng, nhọc nhằn của tôi, khi đi tìm kiếm cô, cùng chỉ mong hỏi cô một câu tương tự vậy.

    -Không. Hơn năm nay, chúng tôi không gặp nhau. Không một tin tức nào hết.

    -Từ sau ngày ở cao nguyên.

    -Ông biết.

    -Vâng tôi biết. Nhưng khi tôi lần mò tới nơi thì Chất đã đi khỏi, cô cũng không còn ở trong ngôi nhà đó.

    -Ông có gặp người dì tôi?

    -Cũng không. Căn nhà bỏ hoang.

    -Rồi làm sao ông biết tôi ở dưới này?

    -Tôi lần mò. Tôi dọ dẫm.

    -Để muốn hỏi về Chất?

    -Đúng. Nhưng chỉ đúng phần sau mà thôi.

    -Ông nói khó hiểu quá.

    Tôi bảo người đàn ông vậy. Và tôi bắt đầu linh cảm thấy người đàn ông chân cụt này mang nhiều bí ẩn gần xa tới Chất hoặc chính tôi.

    -Phải. Để tôi nói rõ hơn, là tôi chỉ chú ý tới Chất sau khi được gặp cô ở khu chợ ngã ba biên giới.

    Tôi không chịu nổi lối nói úp mở của người đàn ông này nữa. Tôi bảo thẳng:

    -Ông nên nói rõ, nói hết. Tôi không hiểu gì cả. Tôi không thích lối nói quanh co của ông.

    Người đàn ông cười, đập đập chân nạng xuống hè đường.

    -Tôi tưởng cô thích. Vì chính cô ưa xử dụng lối nói đó.

    -Riêng bây giờ, lúc này, thì khác.

    -Tôi sẽ chiều theo ý cô. Nhưng…

    -Ông cứ nói.

    -Cô hãy bình tĩnh. Cô phải bình tĩnh, hoàn toàn bình tĩnh, lúc nghe tôi nói.

    -Vâng. Tôi đang bình tĩnh đây. Tôi bình tĩnh, lắm.

    -Trước hết tôi xin tự giới thiệu, mặc dù cô không hề hỏi tên tôi. Tôi là Công. Nguyễn Văn Công.

    -Có quan trọng gì điều đó?

    -Cô hãy từ tốn. Có chứ. Cô chưa thấy đấy mà thôi. Nhưng khoan đã. Để cho nó có đầu có đuôi. Trước hết, tôi không phải là người ở trong này. Tôi từ ngoài Bắc vào.

    -Ông là cán binh..

    -Vâng. Chính thế. Tôi bị thương trong một trận đánh ở gần khu tôi đã gặp cô. Tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình được đồng bào ở đó cứu chữa cho vết thương của mình. Sau đó tôi được đưa vào nhà thương vì cái chân của tôi không thể nào lành nếu không cưa đi một đoạn. Đã yên trí mình chết. Không ngờ được cứu sống, tôi cảm thấy thương yêu những người đã cứu tôi dù trước đây nếu gặp, có thể tôi sẽ giết họ hoặc ngược lại. Trước khi vào bệnh viện, tôi ra trình diện cơ quan chính quyền địa phương.

    Khi tôi gặp cô là lúc chân tôi đã được lành lặn hoàn toàn và tôi cũng đã hoàn tất thủ tục của một hồi chánh viên. Tôi được trả về đời sống bình thường. Phần không biết đi đâu. Phần quyến luyến nơi có những người đã cứu sống mình, tôi trở về khu đó. Và tôi đã gặp cô. Và tôi đã… Xin lỗi cô. Tôi đã thầm yêu cô. Dù tôi biết, đó là một lố bịch và không thể vô vọng hơn. Nhưng tình cảm tự nhiên tôi không thể áp chế nó. Những rung động đầu tiên của một người con trai. Khi ấy tôi đã hai mươi hai. Nhưng cho đến khi tôi được lệnh bôn tập vào đây, tôi sống với những cuồng tín của mình, tôi không biết thế nào là một đời sống tình cảm hết. Tôi bị kẹt lại ngoài đó, với bà nội tôi. Mẹ tôi và các anh các chị tôi vô trước. Năm ấy tôi mới lên mười. Sự kẹt lại này, làm nội tôi sớm qua đời vì buồn bã, hối hận, ăn năn là đã giữ lại tôi. Khi nội tôi mất, tôi được nhà nước nuôi cho đến phút có lệnh vào Nam.

    -Trường hợp của ông thật hiếm có và đáng tội nghiệp.

    Tôi bùi ngùi trước hoàn cảnh của anh ta.

    -Hiếm thì không hiếm những người bị kẹt lại như tôi. Nhưng điều đáng nói là định mệnh đã xui khiến tôi gặp cô.

    Tôi nhớ lại dần dần đoạn phim đã qua. Tôi nói:

    -Hồi đó, chính tôi cũng muốn gặp ông. Bởi tôi nghe phong thanh, tưởng ông cùng đơn vị với Chất. Chất cũng tham dự trận đánh đó.

    -Vâng. Tôi biết như vậy, nên tôi đã tránh mặt. Tôi không muốn cô thất vọng, cũng như không muốn khai rõ lý lịch của mình. Chỉ tiếc một điều là mãi sau này, tôi mới biết, cô muốn gặp tôi để hỏi về Chất. Nguyễn văn Chất. Và đó là người yêu của cô.

    -Ông lấy làm tiếc? Nếu ông biết rõ?

    -Nếu biết rõ từ đầu, đã không có chuyện tôi… tôi để ý tới cô. Và mọi việc tôi đã chắc đã khác.

    -Khác theo chiều hướng nào?

    -Tốt hơn.

    -Chẳng hạn?

    -Chẳng hạn như tôi sẽ cùng cô tìm kiếm Chất.

    -Thiệt tình tôi không hiểu. Ông nói làm tôi hoang mang, rối trí thêm.

    -Vâng, sự thực câu chuyện cũng không giản dị dể hiểu gì cho lắm.

    Tôi chợt nhận ra có một liên quan nào đó giữa hai dòng họ. Nhất là anh ta nhấn mạnh vào tên họ anh ta. Tôi nói liền:

    -Ông có liên hệ bà con với Chất? Nhưng rồi không để anh ta kịp trả lời, tôi lại nói:

    Tuy nhiên vô lý. Tôi không tin điều đó. Bởi Nguyễn văn thì thiếu gì cả ngàn vạn người Nguyễn văn. Ngay cả cái tên Chất nữa. Một cái tên bình thường, có thể trùng hợp.

    -Phải. Cô nói đúng. Và cô hãy cứ nghĩ như vậy. Để cho lập luận của mình thêm vững chắc, tôi nói:

    -Hơn thế nữa, tôi không thể nghe Chất nói có một người anh hay em còn bị kẹt lại ngoài đó.

    -Vâng. Thì tôi có nói gì trái ngược đâu thưa cô. 

    Thái độ bình thản, lạnh lùng của người đàn ông càng làm tôi hoang mang, thảng thốt.

    Tôi không dám thả mặc cho trí tưởng của mình, phóng tới những dự đoán nhưng phải chăng, người đàn ông chân cụt này, là em ruột của Chất? Hay đó chỉ là một cách nói biện hộ cho cái tình cảm bồng bột, quá đà mà anh ta đã dành cho tôi.

    Giữa lúc đó, Kiệm xuất hiện. Sự xuất hiện của Kiệm thật đúng lúc. Hình như Kiệm đã ngần ngại, ngơ ngác trước sự có mặt của người thanh niên cụt chân, trên cùng băng ghế với tôi. Tôi nghĩ cũng không cần thiết lắm, một giải thích. Kiệm cũng không dám hỏi, chỉ nói:

    -Cô Ngọc bảo ra đón cô về.

    Tôi đưa tay cho Kiệm nắm.

    -Cô Ngọc về lâu chưa?

    -Mới, thưa cô. Nhưng cô Ngọc có vẻ sốt ruột muốn gặp cô ngay. Chắc có chuyện gì đó.

    Tôi đứng dậy hướng về phía người thanh niên:

    -Xin lỗi ông. Tôi phải về.

    Tiếng nạng khua khoắng trên mặt đường, có lẽ anh ta cũng đứng dậy:

    -Không dám. Chừng nào tôi có thể được phép gặp lại cô?

    -Ông thực tình muốn vậy?

    Người đàn ông cười:

    -Câu chuyện của chúng ta mới bắt đầu mà.

    Tôi gật:

    -Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng không thể hứa chắc với ông được. Chiều nay, hoặc sáng mai.

    -Ở băng ghế này.

    -Vâng. Ở băng ghế này.

    Tôi quay lưng bước. Chợt người đàn ông gọi giựt tôi lại.

    -Cô Mị.

    Tôi dừng bước:

    -Vâng, thưa ông.

    -Cô quên lưỡi dao.

    Tôi giật mình, hoảng hốt:

    -Ông làm ơn cho tôi xin.

    -Thôi, để tôi giữ giùm cô. Chắc cô cũng không cần đến nó lắm.

    Tôi gật đầu, nói mạnh:

    -Vâng. Cũng không cần lắm.

    Tôi kéo Kiệm bước nhanh, như chạy trốn một điều gì ghê gớm đang bám đuổi, sát sau lưng.

    Qua đến lề đường bên kia, tôi mới nghe thấy tiếng nạng gỗ của người thanh niên, bắt đầu gõ từng tiếng chậm chạp.

    Biển vẫn ầm ì tiếng sóng và gió như nhiều hơn lao xao trên những ngọn bàng.

    Kiệm đi sát bên tôi trên suốt đường về.

    Tôi không còn nhớ đã ở trong tòa lâu đài bao lâu chỉ biết lúc cùng chàng rời khỏi, đêm đã xuống thật sau trong khu rừng, mưa cũng đã ngừng hẳn. Dì Năm ngồi đọc kinh ở gian buồng trong. Mâm cơm với miếng thịt nai tươi của chàng đem về đã dọn sẵn ở gian ngoài trên chiếc bàn nước. Tôi đi vòng theo chàng vào nhà bằng cửa trước, không đi qua ngả bếp. Chàng ra dấu cho tôi im lặng. Tiếng lâm râm đọc kinh của Dì Năm, đều đều, vang âm cùng tiếng côn trùng rền rĩ bốn chung quanh. Chàng lại chiếc đi văng, ngồi co chân, tựa lưng vào vách tường. Tôi chọn chiếc ghế kê sát lối ra vào. Hình như sau những giây phút gần gũi tận cùng, chúng tôi đã xa cách nhau, như chưa từng một lần xa cách đến thế, dù hiển nhiên, chúng tôi đang có nhau trong mắt thấy. Chàng châm thuốc hút. Tôi loay hoay với cây bút đã nhiều lần dùng để viết nhật ký cho chàng.

    Hạnh phúc không bao giờ mãi đậu trong tay ta. Nó là những cánh bướm. Phải bay. Nó là những giọt lệ. Phải lăn đi. Nó là những bọt sóng. Phải tan theo những con nước rút. Tôi nghĩ vậy. Hay sự thực hạnh phúc chưa hề chạm mặt tôi. Hay sự thực, điều mà tôi nghĩ, cái mà tôi cho là hạnh phúc, cuối cùng, cũng chỉ là một chiếc bóng. Một chiếc bóng mờ. Chúng ta không thể giữ lại gì cho nhau, ngoại trừ những đớn đau và nhục nhã. Bởi chỉ có những đớn đau, những nhục nhã mới đủ sức đẽo sâu những vết dao, những lát rìu trong tâm hồn, trong trí nhớ ta.

    Không lẽ đời sống chỉ có một mặt sần sùi ấy?

    Dì Năm bước ra. Vẻ mặt Dì tươi cười, dịu dàng và trong sáng như một tấm gương suốt trong. Dì Năm luôn luôn vẫn có những giây phút trong suốt như vậy. Cái trong suốt không bận vướng một ám ảnh một toan tính, một tội lỗi, dù rất nhỏ. Tôi vẫn thèm có được những phút thanh thản đó, của Dì. Tôi đã tập, đã ép, đã thử mình nhiều bận, nhưng sau mỗi lần ở nhà nguyện ra, tôi lại chỉ thấy lòng mình trống trải, cô đơn và tội lỗi hơn thêm mà thôi. Lòng Chúa bao dung, tình Chúa bát ngát như trời, như biển, thật đó, nhưng nếu ngay khi trần gian này, có trở thành một thứ thiên đường thứ hai, sau thiên đường trong nước Chúa, tôi nghĩ, chắc Chúa, cũng không còn một chỗ ngồi, một chỗ đứng nhỏ bé nào dành cho tôi. Bởi tôi đã tự chọn lấy cho mình một chỗ đứng khác hơn chỗ đứng trong thế giới của Chúa. Tôi đã tự chọn cho mình chỗ ngồi ở ngoài những chỗ ngồi có sẵn cho một con chiên.

    Dì Năm trách chúng tôi, bằng một giọng âu yếm về sự không trở về đúng giờ ăn. Tôi nhìn Dì lặng lẽ.  Chàng cười, nói một câu chống chế, xong ngồi vào bàn ăn.

    Thêm một bữa cơm có chàng bên cạnh, làm tôi muốn ứa nước mắt, nghẹn ngào. Dì Năm đùa bảo, có mừng thì cũng mừng vừa vừa thôi, phải ăn cơm chớ, bộ mừng quá rồi không ăn uống gì sao. Tôi cười.

    Quả là nỗi vui mừng bất chợt đã khiến tôi không còn thiết gì đến chuyện ăn uống nữa.

    Suốt bữa cơm, chàng nói chuyện với Dì Năm về gia đình chàng và những ngày thơ ấu xa xôi. Tuyệt nhiên chàng không đá động gần xa tới chuyện hai đứa. Tôi lắng nghe và bằng lòng thái độ dè dặt này của chàng. Bữa cơm tối đã muộn còn kéo dài thêm bởi ấm trà pha sẵn.

    Có dễ khuya lắm, chúng tôi mới chia tay đi ngủ.

    Cơn sốt ngần ngật buổi sáng không còn hành hạ trong tôi, nhưng sao tôi vẫn không thể nào chợp mắt. Tôi nghe được tiếng thở đều đặn, thỉnh thoảng xen lẫn một vài tiếng ú ớ, nằm mê của chàng ở gian ngoài. Bên cạnh tôi, Dì Năm cũng đã ngủ say, sau khi Dì nói cho tôi nghe những ghi nhận đầu tiên của Dì về chàng. Đó là những ghi nhận nhiều thiện cảm. Những nhận xét với nhiều tình cảm tốt đẹp của Dì Năm, càng khiến tôi thêm tủi hẹn. Làm sao Dì Năm hiểu được rằng chuyện của tôi và chàng là chuyện không lối thoát. Nó có đấy như một cái gì tuyệt vọng không thể tuyệt vọng hơn. Nó như chiếc dây thòng lọng, treo cổ tôi, lơ lửng giữa trời cao. Chiếc thòng lọng mỗi phút một siết chặt thêm và sự giãy giụa của tôi, sự níu kéo, cuống cuồng, muốn cứu gỡ của chàng chỉ làm tôi thấy gần thêm sự tắt nghẹn hơi thở.

    Cơn mưa đã dứt lâu nhưng những trận gió thổi qua, mỗi lần, lại rung những hạt nước còn đọng lại trên lá, xuống mặt đất, thành những tiếng rào rào, như cùng lúc có rất nhiều chân bước. Tôi lăn lộn với cơn đau xé thịt hồi chiều và nỗi mệt mỏi ê ẩm khắp cùng thân thể.

    Cuối cùng, thấy rằng mình không có cách nào để ngủ được, tôi lén Dì Năm, se sẽ ngồi dậy, ra khỏi giường nằm.

    Tôi rón rén bước, không dám đi dép sợ dì Năm nghe tiếng động, tỉnh dậy.

    Những người già thường rất tỉnh ngủ, họ thính tai lạ lùng. Dì Năm cũng vậy. Chỉ cần một tiếng động rất nhỏ, như tiếng gẫy đập một nhành cây, tiếng lộp bộp từ xa của trái thông rụng, cũng khiến Dì, đang giữa giấc, giật mình tỉnh dậy nghe ngóng.

    Không một định trước nào mà chẳng hiểu sao, thay vì đi thẳng ra phía cửa ăn thông với căn nhà bếp để bước ra ngoài trời, tôi lại rẽ tay mặt, sang phòng của chàng. Rồi chính tôi, cũng không hiểu mãnh lực nào đã thu hút tôi, cưỡng bức tôi không thể rời mắt khỏi chàng, đang trong giấc ngủ.

    Chàng nằm nghiêng, mặt quay ra ngoài, mái tóc xòa chảy trên mặt nệm trắng. Trong giấc ngủ, chàng như một trẻ thơ. Hệt một trẻ thơ, môi dưới của chàng bậu ra, hàng mi khép, dài hơi cong, vẻ bụ bẫm của thuở ấu thời vẫn còn phảng phất trên má và vầng trán phẳng. Tôi xúc động tận cùng. Cái xúc động của lần đầu. Phải. Cái gì đối với tôi cũng là lần đầu. Lần đầu, chúng tôi chạm đụng tới da thịt nhau. Lần đầu, chúng tôi ngồi cùng một bàn ăn, dưới cùng một mái hiên. Lần đầu, tôi nhìn thấy chàng ngủ. Những lần đầu, đến cái tuổi hai mươi bẩy như tôi, quả là một thứ muộn màng không thể muộn hơn. Một thứ lần đầu chua chát, và cay đắng, nếu đứng nhìn từ một phía nào, ở ngoài. Nhưng trong tôi, đó vẫn là những xúc động thần kỳ. Những xúc động có khả năng rung bật cùng lúc, những dây tơ mong manh của một niềm mơ ước âm thầm nhưng mãnh liệt, của một tiềm thức lao xao những ưu uất, những oán giận những thèm khát tự nhiên, những thôi thúc của bản năng, nữ tính đằng đẳng trong suốt bảy tám năm. Nói bằng một cách nào đó, thì trong tôi, cùng một lúc, những xác chết bao năm, bỗng không đứng dậy, và rạo rực đi lại.

    Những xác chết, làm sáng lên mặt sáng bên kia của sự sống còn lại trong ta, nhưng nó cũng là những con nước ngầm rút nốt đi, những gì còn lại, sau khi nó hồi sinh và một lần thêm, ngã xuống, vĩnh viễn.

    Nhìn chàng ngủ, những oán giận chồng chất bao năm dần dần nguôi ngoai và từ đó một cảm tình trái ngược, mọc lên, xanh mướt như những nhánh huệ tinh khiết trên một nền cỏ, ban mai nằm mộng. Tôi không dằn được nghẹn ngào. Cái nghẹn ngào đứng lên từ một hạnh phúc vượt tầm. Đàn bà là thế. Phải chăng? Tôi trước sau, vẫn chỉ là một phụ nữ yếu đuối, nô lệ?

    Người ta không chỉ nghẹn ngào trong những đớn đau chôn sống mà người ta còn có thể nghẹn ngào trong những phút giây hạnh phúc nâng lên, trên một cánh bướm lớn.

    Tôi run rẩy ghé ngồi bên mép giường của chàng. Cử chỉ này, ngay khi ấy, tôi cũng không hiểu nổi, nhờ đâu tôi làm được như vậy. Phải nói đó là một cử chỉ liều lĩnh, táo tợn. Một trong những hành động chưa bao giờ đến từ tôi. Tôi đã đánh mất, đã bỏ rơi, đã thất bại trước tuổi trẻ mình.

    Thời dậy thì, cái bình minh rực rỡ nhất của một đời đàn bà, tôi đã không có. Cái nắng thủy tinh vàng ối chói chan của một mặt trời đang trên đà lên tới chính ngọ, đã qua đi ở tôi. Tôi đã thất lạc nó. Có nghĩa là những gì tôi có thể làm, có thể hành động để tạo nên, để dành giữ lấy cho mình một vốn liếng cho mai sau, một thế giới sẽ mãi hào quang trên những phần đời sẽ chết, còn lại, tôi đã bỏ lỡ. Cơ hội đã qua. Những con sóng bạc đầu đã xa bờ cát ẩm, những trận gió lay rừng, chuyển núi, đã lặng lẽ ra đi, hay đúng hơn là chưa từng thấp thoáng một lần trong dậy thì của đời tôi. Tôi không có được cả cái bồng bột như lửa bén, cái náo nức như cơn điên của những đam mê tối tăm thần trí, dù những thứ đó, mai kia trở thành những vết sẹo hằn ân hận.

    Có thành một đời sống không? Khi suốt đời ta không có lấy một quá khứ huy hoàng trong điên mê, rực rỡ trong tội lỗi, hạnh phúc trong niềm ăn năn ray rứt êm đềm.

    Tôi nhích lên một chút nào nữa, để nhìn rõ hơn mặt chàng. Tôi nghe được hơi thở và tiếng đập trong lồng ngực chàng. Tôi yếu đuối, tôi khổ sở, tôi sung sướng trong một trạng thái mê man đến chảy nước mắt khi đặt tay lên ngực chàng. Những ngón tay tội nghiệp, run rẩy như những cọng cỏ, những con sâu lần bò trên mặt chàng.

    Da mặt chàng lạnh giá. Tôi xót xa, bỗng không xót xa như bàn tay mình vừa chạm phải một vết thương nứt nẻ nào, trên chính thân xác mình. Tôi lùa những ngón tay tội nghiệp đó, vào sâu trong tóc chàng (Những sợi tóc trong những giấc mơ lẻ loi, tôi hằng thấy mình ve vuốt, tôi hằng thấy mình mơn trớn và cái cảm giác mềm óng của nó, cho tôi tưởng tượng thân thể mình được chẻ ra thành trăm phần riêng biệt và đang lạc lối, tìm nhau, giữa một khu rừng chỉ có lau và những bông cỏ trắng).

    Giữa lúc tôi đang mơ màng như một kể mộng du (hay tôi chính là kẻ mộng du) với những cảm giác và ý tưởng lạ lùng, kỳ thú thì chàng cựa mình.

    Tôi hoảng hốt rút tay về. Nhưng đã muộn. Chàng đã nắm được bàn tay tôi. Chàng trở người quay mặt vào tường, khiến tôi mất thăng bằng, ngả nghiêng lên mình chàng.

    Và Chất tỉnh dậy, bằng cánh tay còn lại, chàng ôm choàng qua lưng tôi.

    Mặt chúng tôi úp vào nhau. Và trong cơn mơ hay trong sự thức tỉnh sáng suốt của hai đứa (?) chàng hôn tôi.

    Tôi giãy giụa trong giới hạn một cách thật cố gắng và khó khăn, vì bằng cách nào, tôi, cũng không thể quên rằng, bên bức tường ngăn cách, dì Năm ở đó. Sự trực nhớ này, không cho phép tôi thốt kêu, dù một tiếng nhỏ. Nó cũng hạn chế tôi ngay trong cả sự giằng co để có thể thoát khỏi cánh tay mỗi giây một khép cứng.

    Điều duy nhất tôi có thể làm được và đã chọn lựa, đó là sự thả trôi mình bềnh bồng, giạt đi, tấp lại trong cơn bão của đam mê, của dồn nén, của thù hận, của cả những điên rồ, ngây dại muộn màng, lỡ dở…

    Thời gian tưởng sẽ mãi ngừng, tưởng sẽ mãi tắt, chết, cùng với sự ngừng nghỉ của trái tim tôi, bỗng đột ngột chảy trôi hấp tấp, đe dọa hồi hộp khi bên kia tường, dì Năm trở mình. Tiếng kêu động của những nạng gỗ dưới tấm nệm dày như ném trả tôi trở về với hoảng hốt, với âu lo, cuống quýt. Chúng tôi cùng nhịp thở. Không bảo nhau, cả hai đứa hồi hộp lắng nghe những tiếng động tiếp theo.

    Tôi nghĩ tới chuyện dì Năm có thể mở mắt hay quờ tay tìm kiếm tôi. Tôi nghĩ dì Năm có thể trở dậy… Trời! Nếu thế! Tôi sẽ ra sao? Tôi sẽ như thế nào? Và chàng, cả chàng nữa! Liệu tôi có đủ can đảm nói thẳng với dì Năm là tôi đã ra phòng ngoài với chàng. Tôi có thể và chắc chắn tôi sẽ làm vậy, nếu sự việc không xẩy ra không thể khác. Nhưng một vấn đề khác nữa, quan trọng hơn, liệu dì Năm có tin nơi lời tôi? Liệu dì Năm có thể tưởng tượng được rằng, tôi dám làm như vậy? Hay thân tâm, dì Năm, nghĩ trái ngược, dì Năm sẽ cho rằng vì tôi muốn giữ sự tôn trọng tối thiểu nào đó, cho chàng, nên đã tự nhận phần chủ động về phía mình. Những câu hỏi dồn dập nổ tung trong óc tôi. Mỗi câu hỏi nẩy sinh thêm một số câu hỏi khác nữa và một số vấn đề kèm ngay theo nó. Tôi nghe mồ hôi vã ra ở tay, rịn ướt ở lưng. Tôi nghe hơi thở mình đứt đoạn, và chừng như trái tim tôi đã đập mạnh hơn ý tôi muốn.

    Chất có vẻ bình tĩnh, hay ít ra thì chàng cũng đã giả bộ và làm được như vậy.

    Tôi giấu mặt mình trong ngực chàng. Cằm chàng kề trên tóc tôi. Tất nhiên chàng không thể che kín tôi hoặc có thể đắp phủ lên tôi, khiến dì Năm không nhận ra tôi.

    Trong tình thế đó, tôi thấy rõ mình đã như một kẻ phạm tội và bị bắt quả tang.

    Tiếng động bên kia tường, một lần nữa lại vang âm trong sự im lặng tuyệt vọng của tôi, và có thể của luôn cả côn trùng, luôn cả vũ trụ, bên ngoài bởi tai tôi không còn nhận được âm thanh nào khác hơn những âm thanh đe dọa vằng lên một sự thực chua xót và đau đớn.

    Những tiếng động vằng lên từ bên kia phòng tắt hẳn theo với hơi thở đều đặn trở lại của dì Năm.

    Chất nhỏm dậy, ra dấu cho tôi theo chàng.

    Chúng tôi bước ra ngoài hiên. Gió lạnh se da mặt. Hơi mưa vẫn còn thoảng đầy không gian. Những đám mây trĩu nặng nước vẫn làm bầu trời thấp và tối, một màu tối xanh, đục. Những cành thông lay động. Tiếng côn trùng và những chớp sáng của những con sâu đất cho tôi nhận ra khu rừng phía xa. Cảnh vật như được trải rộng, căng hết trên một tấm lưới đen lớn. Những con mắt vô hình như thập thò, lấp ló ở đâu đó. Chất dựa lưng vào cột nhà. Tôi nép sát bên chàng. Hơi thở chàng ấm và đẫm mùi thuốc lá. Đốm lửa thuốc trên môi chàng, chốc chốc lại lóe sáng. Tôi dần dần lấy lại được bình tĩnh. Ngọn đèn bếp hắt một khoảng sáng nhỏ về phía tòa lâu đài. Ánh sáng từ căn phòng trên tầng lầu, nhắc tôi nhớ là chúng tôi đã quên tắt nó lúc chiều khi ở trong đó.

    Tôi níu tay chàng:

    -Ngọn đèn.

    Chất nhìn theo ngón tay chỉ:

    -Phải tắt nó đi chứ.

    -Cần lắm không?

    Tôi nói với một lòng e ngại, ngập ngừng. Phần tôi sợ để ngọn đèn đã tố cáo sự có mặt của chúng tôi trong đó suốt một khoảng thời gian dài, buổi chiều. Phần tôi ngại phải trở lại đó một lần nữa trong ngôi nhà quái đản ấy, dù chỉ mình chàng đi, và tôi đứng dậy.

    -Lỡ lát nữa, nửa đêm, gần sáng dì Năm tỉnh dậy thì sao? Chất nói.

    Tôi gật đầu:

    -Em cũng nghĩ thế.

    -Mị sợ?

    -…

    -Sự trở lại?

    -Không. Sợ ngôi nhà. Sợ căn phòng. Sợ sự lẩn khuất của đôi người trẻ tuổi?

    Chất cười, choàng tay qua vai tôi, kéo đầu tôi ngã vào ngực chàng:

    -Thế thôi. Để mình anh đi.

    -Mình anh?

    -Mị cũng không bằng lòng?

    Tôi cười giấu sự ngượng ngập của mình trong vai áo chàng:

    -Vâng. Em sợ một mình.

    -Đã có dì Năm.

    -Dì Năm đã ngủ.

    -Một lát thôi. Tắt xong anh xuống ngay.

    -Không. Một mình em đứng đây em cũng sợ lắm.

    Chất vuốt nhẹ đôi má tôi:

    -Bao lâu nay thì sao?

    -Đêm tối tới, không bao giờ em bước khỏi phòng. Dì Năm đi đâu em ở đó.

    -Hay…?

    -Sao anh?

    -Hay Mị đi cùng với anh.

    Có lẽ đến phải theo Chất mất. Tôi nghĩ thầm. Không còn cách nào khác. Thà theo Chất vào ngôi nhà đó, dù sao cũng có chàng ở bên cạnh, hơn là đứng lại một mình ở đây, với đêm và rừng, chung quanh.

    Tôi đáp liều:

    -Vâng. Hay anh cho em theo với.

    Chất cười cốc nhẹ vào đầu tôi:

    -Con thỏ đế.

    Tôi cũng cười. Tiếng cười nhỏ, nhưng trong khuya vắng, âm thanh dội xa, rồi như trả lại, chính tại mình, những tiếng ròn rã thân thuộc hạnh phúc, ngây ngô.

    Chất búng tàn thuốc vào khoảng tối đen trước mặt:

    -Chờ anh đây nha.

    Tôi chưa kịp nói gì, Chất đã bước trở về phòng. Chàng lấy hai chiếc áo len. Một cho tôi và một cho chàng. Tôi chỉ khoác hờ tấm áo len lên người trong khi chàng mặc hẳn và cài nút cẩn thận.

    Chúng tôi bước men theo hàng hiên, qua nhà bếp, vòng sau lưng và băng qua đoạn đường sỏi.

    Tôi dừng lại ở ngoài cổng lâu đài, chờ Chất vào trước tìm nút điện, bật lên, xong quay ra dắt tôi.

    Ánh sáng xua giạt bóng tối nghi hoặc đầy đe dọa về một phía. Chúng tôi lần từng bậc thang, theo đường cũ.

    Tòa lâu đài không còn cho tôi cái cảm giác hãi hùng hồi chiều, nhưng tôi vẫn cảm thấy gai ốc muốn nổi lên, ở khắp miền da thịt. Nhờ ánh sáng và đã một lần nên Chất thành thạo tự nhiên hơn.

    Đến trước cửa văn phòng. Chất dừng chân, quay lại ngó tôi, cười với vẻ thách đố.

    -Dám vào không?

    Tôi nhìn chàng và nép sát chàng hơn, gật đầu:

    -Vào.

    -Không sợ?

    -Không. Có anh rồi.

    -Gan dữ. Chất nói và giơ tay đẩy mạnh cánh cửa.

    Căn phòng mở ra với nguyên vị những đồ vật tôi đã thấy hồi chiều. Vẫn khuôn mặt người con gái thơ ngây trong khung kính.

    Vẫn chiếc bàn, cái tủ, và chiếc giường. Tôi tránh không dừng mắt lâu nơi chiếc giường. Không hiểu sao, tự dưng tôi lại không dám nhìn nó. Chất bước vào trong, ngồi xuống giường, quen thuộc, tự nhiên như chủ nhân lâu ngày mới trở lại, ngắm nghía những đồ vật thân yêu, những thứ đã gìn giữ cho mình rất nhiều quá khứ của một đoạn đời đã qua.

    Chàng ngả người, dựa lưng vào tường. Chiếc cửa sổ bên tay trái vẫn mở.

    Đó là một trong những việc phải làm để nó trở lại nguyên vẹn hình thức ban đầu. Tôi nghĩ và tiến về phía cửa sổ, kéo hai cánh lại. Quả đấm sắt đã hoen rỉ, tuy nhiên tôi cũng không phải cố gắng lắm để xoay nó cho hai thanh sắt mỏng đâm sâu vào hai lỗ khoét trên thành gỗ.

    Hình như bụi lả tả rơi xuống đầu óc tôi. Tôi ngửi thấy mùi hôi mốc khó chịu đến muốn hắt hơi.

    Chất lặng lẽ theo dõi tôi bằng đôi mắt lơ đãng như không hề chú tâm tới việc đó. Tôi lấy tay phủi phủi lớp bụi rơi bám trên áo, xong quay lại:

    -Sao anh nhìn em?

    -Anh đang tưởng tượng.

    -Tưởng tượng gì?

    -Tưởng tượng đến một tương lai, gần hay xa nào đó.

    -Tương lai như thế nào?

    Chất lắc đầu, xòe hai bàn tay, cúi mặt nhìn vào những sợi chỉ loằng ngoằng:

    -Chúng ta có một căn phòng. Một căn phòng nhỏ thôi, như căn phòng này, chứ không phải là cả một tòa nhà.

    -Riêng anh và em?

    -Phải, riêng anh và em.

    Tôi bỗng bật cười. Chất ngơ ngác:

    -Sao em cười lạ vậy? Em không muốn?

    -Anh lãng mạn quá.

    -Thế là lãng mạn?

    -Vâng. Thế là quá lãng mạn.

    -Tại sao?

    Tôi mở to mắt nhìn chàng:

    -Anh không hiểu?

    -Thực tình không.

    Niềm chua xót bùi ngùi chợt dềnh dâng lên ngang ngực làm tôi nghẹn ngào, đau đớn:

    -Chúng ta làm gì có tương lai để mơ ước.

    Chất đứng phắt lên, đi lại phía tôi, kéo tôi về phía giường ngồi:

    -Anh hiểu rồi. Chúng ta trước sau chỉ là những kẻ bị săn đuổi. Những con thú lạc loài. Những con thú thân đầy thương tích. Nhưng…

    -Còn nhưng gì nữa anh.

    Tôi lại nhận ra, nước mắt mình khi không đã ứa.

    -Mị đừng quá bi thảm vậy.

    -Sự thực. Làm sao hơn được.

    -Đã đành là sự thực.

    Chất ngập ngừng như để có thời gian tìm lời an ủi tôi, hay bênh vực cho niềm tin của chàng. Chàng nói tiếp:

    -Anh vẫn nghĩ chẳng có gì mình không làm được nếu cả hai cùng cương quyết.

    Tôi chùi mắt bằng tay áo, lật lại.

    -Cả hai?

    -Thì chúng ta không đang cả hai đây sao?

    -Liệu được mấy ngày?

    Câu hỏi thật độc ác, tôi nhận thấy như vậy, nhưng đã lỡ buột miệng. Hơn nữa, nó chính là con dao đang cắt cứa từng miếng da tôi, cho máu tươi ròng ròng, chảy xuống, không riêng gì chàng.

    Chất không giấu được xúc động, bàng hoàng. Chàng giơ tay lên xong lại buông thõng một cách tuyệt vọng.

    -Mị xin lỗi anh.

    Chất lắc đầu:

    -Không Mị nói đúng. Đó là vấn đề. Trước mắt. Gần nhất. Đó cũng là tương lai, nếu nhìn tương lai, là tất cả những gì sẽ tới, từ thiên đàng hay địa ngục.

    -Thiên đàng hay địa ngục của em, ở nơi anh.

    -Và ngược lại.

    Tôi lắc đầu:

    -Không đúng. Với anh.

    -Đúng.

    Chất nói lớn, vẻ tức giận. Tôi cười:

    -Anh đừng gắt chứ!

    -Anh xin lỗi.

    Chất dịu giọng. Chàng cúi thấp mặt hơn nữa. Qua hai bàn tay bưng mặt, tôi thấy những nếp nhăn nhám trên gương mặt chàng.

    Đêm vẫn êm ái ở bên ngoài. Gió chạy xạc xào trên những phiến lá rụng cùng những hạt mưa đọng lại, rơi theo. Tôi thở một hơi dài, như khói.

    Chất đứng lên, vung mạnh hai tay, tiến đến chỗ tắt đèn. Tôi cũng đứng lên:

    -Mình về, anh?

    -Không. Ở lại đây thêm một chút.

    Chất quay lại, ngay hướng tôi. Chàng đặt tay lên vai tôi, dịu dàng, và buồn bã. Đôi tay như vẫn không nối liền được khoảng cách là những hoang mang, đau đớn bập bùng dấy lên. Chất kéo tôi nằm xuống chiếc giường, nơi đôi người trẻ tuổi đã chết. Tôi không cảm thấy ớn sợ, mà thầm mong phải chi chúng tôi được như vậy. Hai đứa chết cùng một lúc. Chết ở một nơi không có người nào thân ngoài dì Năm. Cái chết gần như vô thừa nhận. Thật thảnh thơi, thật sung sướng. Không làm phiền đến ai. Không một điều tiếng gì đến tai hai gia đình. Riêng ở thị trấn nhỏ này, tuy không chuyện gì giữ kín được lâu, nhưng cũng không có chuyện gì khiến cho người ta phải nhớ mãi. Rồi họ sẽ quên. Quên rất mau. Sau một vài ngày bàn tán xầm xì.

    Tôi liếc mắt nhìn Chất. Chàng vẫn lạnh lùng, mắt nhìn thẳng lên trần nhà. Khuôn mặt chàng không lộ ra một tha thiết ham muốn sự sống, và càng không mang ám ảnh của sự chết. Tôi không hiểu chàng đang nghĩ gì nữa. Điếu thuốc vẫn tiếp tục cháy trên đôi môi chàng. Đốm lửa lóe sáng từng chập.

    Một lúc sau, Chất đột ngột lên tiếng:

    -Mị à.

    -Vâng. Em nghe.

    -Không lẽ mình mãi thế này?

    -Em cũng đang tự hỏi mình như vậy. Nhưng liệu mình có thể làm được những gì để khác đi?

    -Hay…

    Chất ngập ngừng một lát, rồi chàng nói tiếp, giọng xúc động thành khẩn:

    -Hay em đi theo anh.

    Tôi nhói người với đề nghị táo bạo của Chất:

    -Anh điên rồi sao? Còn Ph. Còn bao nhiêu người khác vây quanh đời sống của anh, của em.

    -Anh không muốn nhớ đến những bóng ma đó. Chúng nhẩy múa, chúng đan tay nhau thành vòng vây, nhốt giam đời ta lâu quá rồi. Phải phá vỡ chúng mà đi. Phải giết hết chúng mà sống.

    -Dù anh không muốn, thì tất cả cũng còn nguyên vẹn ở đó. Có gì thay đổi đâu. Ngày nay chúng ta muốn thay đổi cũng không còn được. Huống hồ…

    Tôi nhớ đến hình ảnh ba tôi, mẹ tôi, anh Tráng. Những người đã lâu, lùi xa và mờ dần trong trí nhớ. Mỗi khi nhớ lại chỉ thêm vun đầy tuyệt vọng.

    Tôi lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ xấu xa và có phần nào tội lỗi ấy.

    -Trước mỗi đề nghị của anh, em càng thấy rõ mình bất lực hơn.

    Tôi nói. Phải nói. Trước sau gì tôi cũng vẫn không thoát khỏi cái bản chất yếu đuối, lẩn tránh của mình. Tôi run sợ trước mọi thay đổi, mọi quyết định có tính cách đưa đến đổ vỡ, tàn tạ. Tôi có thể và đã sống mãi hoặc chết cho tình yêu của mình. Nhưng tôi vẫn không đủ can đảm thoát dứt đi khỏi những giới hạn, những vòng rào vây hãm của nó để tình yêu, trọn vẹn, rực rỡ như lửa, đốt thiêu như mặt trời, phá hủy như át-xít. Tình yêu không thể mãi sống trong tâm tưởng, trong khép kín, trong đè nén ở tâm hồn. Nó phải được sống đúng đời sống của nó. Nghĩa là tận cùng. Nghĩa là dứt khoát, đi về một hướng nào đó. Phương đông lúc mặt trời mọc. Phương tây lúc mặt trời lặn. Chọn lựa để lên đường. Về với ánh sáng hay vĩnh viễn ẩn vùi trong tăm tối. Nhưng bằng một khởi hành nào, với một nhắm tới nào, đúng hay sai, ít ra, người ta cũng vẫn còn có thể nuôi dưỡng cái hy vọng chạm mặt hạnh phúc. Giáp  mặt ý nghĩa cuối cùng thiêng liêng thần thoại của một kiếp. Mà tôi, đến phút này vẫn chỉ là một con sâu, một con sâu ốm yếu, một con sâu nhu nhược, một con sâu hèn hạ, sợ ánh sáng, sợ cả bóng tối, cuộn mình ngủ vùi trong chiếc kén ảo tưởng do chính tôi dệt nên.

    Tôi biết rằng lần này từ chối nữa, cơ hội đến với tôi là lần cuối cùng, không thể có thêm một cơ hội thứ hai. Nhưng biết làm sao. Tôi không đủ can đảm. Dù những lúc xa chàng bằn bặt, ý tưởng bỏ trốn đi với nhau, sống với nhau, trong lén lút, trong một thời gian, dài hay ngắn, dù chỉ một tuần, một tháng, vẫn là những ngày tháng đáng sống nhất, đáng để liều lĩnh, đáng để hy sinh. Nhưng rồi, trước đề nghị chàng, trùng với mơ ước của tôi, tôi đã chùn nhụt. Tôi đã run rẩy. Tôi đã choáng váng, xây xẩm và thụt lùi.

    Chất vẫn nằm bất động bên tôi. Chắc chàng đoán tôi đang bị giao động nên chàng không nói thêm.

    Không khí nặng nề căng thẳng chia xa hai đứa trong những mâu thuẫn, lộn đảo của ý tưởng điệp điệp trùng trùng.

    Tôi nghiêng người, xoay mặt, áp vào vai Chất luồn tay dưới cổ tôi làm gối. Chàng nghiêng mặt hôn lên mái tóc tôi.

    Tôi rùng mình khi nhận ra đôi môi chàng chạm trên má tôi. Rồi trên môi. rồi xuống cổ. Rồi cùng khắp. Cùng khắp thân thể.

    Tôi không thể ngăn mình đừng buột miệng kêu lên, những tiếng kêu vu vơ, lạc giọng. Những tiếng kêu thảng thốt, bên ngoài sự kiểm soát của ý thức.

    Chập sau, Chất lên tiếng:

    -Dầu sao thì em cũng không thể mãi sống như thế này.

    -Sao không được?

    -Đời sống của em. Tuổi trẻ. Và đám đông. Và xã hội xung quanh. Tất cả những thứ đó, sẽ không bao giờ để em yên.

    Tôi gật đầu nhìn nhận:

    -Anh nói đúng một phần. Gia đình đang hối thúc em trở về.

    -Làm gì? Lấy chồng?

    Chàng ngắt ngang lời tôi. Tôi phân vân không biết có nên nói thật cho chàng nghe về những chuyện đó không. Một trong những lý do khiến tôi tìm đến nơi hẻo lánh này cũng vì chuyện đó. Chuyện chồng con. Đây là một vấn đề thật gay go, tế nhị.

    Thứ nhất là tôi đã không còn trẻ để có thể kéo dài đời sống này thêm nhiều năm nữa. Thứ hai là gia đình tôi chỉ có một mình tôi là gái. Mẹ tôi muốn tôi lấy chồng, muốn có cháu ngoại để bồng, để vui trong những ngày cuối cùng của đời người. Sức khỏe ba tôi cũng mỗi ngày một suy giảm. Anh Tráng thì coi như bỏ rồi với một người vợ lăng loàn, hỗn xược. Vợ anh đã đem con về bên ngoại. Anh Tráng không ra mặt bênh vợ nhưng cũng có chiều nghiêng về phía đó. Tôi nghĩ đến lời nói cuối cùng của nội tôi trong một sân chùa, buổi tối, trước khi người chết. Nội tôi cũng muốn thấy tôi có gia đình. Tôi đã hứa. Và nay thì nội tôi đã chết.

    Đó là tất cả những lý do chính đáng nhất mà mẹ tôi đã nêu ra và gây xúc động rất nhiều ở nơi tôi. Tôi đã trải qua một thời gian hoang mang không ít. Nhưng rồi, hình ảnh Chất, và cuộc tình chua cay, cuối cùng vẫn là những ngọn lửa sáng rực nhất, chói lòa nhất. Và tôi đã ra đi. Tôi đã từ bỏ. Bởi tôi vẫn tự nguyện nếu tôi không thể làm vừa lòng chàng để trái ý gia đình, thì tôi cũng không thể chìu theo gia đình, để giết chết tình yêu của tôi. Đời tôi nào có ý nghĩa hơn cuộc tình này. Nhưng liệu rồi, những ngày tháng tới, những ngày tháng cô quạnh, mở ra trừng trừng, mở ra kinh hoàng, mở ra khiếp đảm trước mắt tôi. Tôi sợ quá rồi những tháng ngày cô quạnh. Tôi run rẩy quá rồi, những đêm cô đơn giữa chăn gối lạnh. Anh. Liệu anh có hiểu cho em?

    Cái thảm hại và cũng là điều chua xót nhất cho tôi, cho một người con gái ở cái tuổi hai mươi sáu, hai mươi bảy này, chính là sự thiếu cương quyết cần và đủ để quyết định lấy đời mình.

    Đến phút này, tôi cũng chợt nhận ra những nhẫn nhục, những chịu đựng của tôi, ròng rã tám chín năm qua, từ ngày tôi mười chín tuổi, cho tới nay đã trở thành vô nghĩa, hay nói cách khác thì chính tôi, tôi đã phủ nhận, tôi đã dập xóa, đã chà đạp lên cái ý nghĩa của nó, tự nó, chính nó.

    Chất nói:

    -Em muốn sống mà không chọn lựa. Không có một tia mặt trời nào, một miếng bóng tối nào, dành cho những loại người như vậy. Em chết trong chính sự sống vật vờ của em.

    -Anh đừng nói nữa. Chất. Hãy còn thương em một chút.

    Tôi nghẹn ngào, đau đớn, níu giữ lấy chàng.

    Chất tiếp, giọng vẫn lạnh lùng, phẳng trơ như những viên đá sỏi tiếp tục ném xuống một mặt nước tù đọng.

    -Anh khác. Anh muốn sống. Sống cho đến phút nhắm mắt. Sống ngay trước mặt sự chết. Em tham lam quá. Em ôm đồm quá. Em muốn cùng lúc đóng tròn nhiều vai kịch. Trong khi em chỉ là một. Người ta không thể phân thành nhiều con người để sống đúng với cung cách, điệu độ của tất cả những con người đó.

    -Thì đã nói với anh rồi! Em nhu nhược. Em yếu đuối. Em không có cái sôi nổi tận cùng, cái ngọn lửa cháy thiêu, một lần, của một đời con gái.

    -Tình yêu anh không đủ nâng em dậy? Không đủ dắt em đi?

    Chất nói, giọng oán hờn, trách móc. Tôi giấu mặt mình trong ngực chàng. Tôi không dám nhìn vào đôi mắt chàng đang bốc lửa, với những nếp nhăn trên vầng trán mênh mông, ngạo mạn. Trước sau gì tôi cũng chỉ là một con sâu ốm yếu trong một cái kén quá dầy đặc.

    -Phải chi lúc nào anh cũng ở bên em. Như thế này. Em chỉ mong thế này. Anh đừng nói gì hơn.

    -Đời sống đâu có giản dị vậy.

    -Anh còn muốn gì hơn nữa ở em?

    Tôi nói. Chất nhổm người, đem mặt tôi ra khỏi bóng tối trong ngực chàng:

    -Thế này là đủ rồi sao? Anh không mong gì hơn ở em hết. Anh chỉ muốn em sống. Em phải sống đúng đời em.

    -Đời em? Tôi lập lại.

    -Phải. Đời em. Đời em là địa ngục hay thiên đàng của anh.

    Tôi cười, cố lảng sang chuyện khác:

    -Thì em đang là địa ngục của anh đây. Anh không nhận ra sao?

    Chất cũng bật cười. Tiếng cười ngắn, tắt ngay. Tắt thật nhanh trên đôi môi chàng. Chất hôn tôi. Nụ hôn nhẹ nhàng, êm ái, như được kìm bớt, được dừng lại ở một khoảng cách ngăn chia nào đó. Khoảng cách mọc lên những hàng cây, những búi cỏ xót xa và buồn tủi.

    Tôi nhắm mắt với xao xuyến, những hoang mang, những dày vò cắn rứt không cùng.

    Chất lùa tay trên khắp thân thể tôi. Những tế bào làm nên tôi một lần nữa, lần thứ hai, trong suốt đời phụ nữ của tôi lại bùng cháy với một sức nóng thiêu đốt của rạo rực, của yêu thương chất ngất.

    Tôi run rẩy, tôi oằn oại, tôi co rúm. Chợt Chất nằm vật ra. Chàng thở dài. Tiếng thở dài được hãm lại trong cuống họng, nhưng tôi vẫn nhận ra, sự khác thường do những tiếng đập ngắt quãng của trái tim.

    Tôi nói:

    -Anh sao vậy?

    Chất chối:

    -Có sao đâu.

    -Không! Anh lại buồn?Anh nghĩ gì?

    Chất ngập ngừng:

    -Anh nghĩ chúng mình rồi lại xa nhau.

    -Làm sao hơn được. Em sẽ sống mãi thế này miễn anh cho em cái ảo tưởng, anh vẫn còn yêu em. Anh chỉ yêu em.

    -Trong trường hợp anh giả dối?

    -Em sống với sự giả dối đó.

    -Em hứa?

    -Vâng. Em hứa.

    -Nghĩa là không bao giờ tìm hiểu sự thực về anh những ngày sống xa em.

    -Em hứa. Nhưng em làm sao dám chắc với anh một khi những tin em không muốn nghe, không muốn biết, tình cờ hay vô ý đến với em.

    -Em sẽ làm gì?

    -Chưa biết. Nhưng chắc là em sẽ không chết. Em không chết ngay đâu.

    -Em làm gì?

    -Không nói trước được. Nhưng có thể và chắc là thế, em sẽ tự hủy một phần nào thân xác em, để tự hành hạ mình.

    -Và hành hạ anh?

    -Anh tinh quái lắm. Có lẽ tại anh quen làm khổ người khác. Em muốn trong trường hợp đó, em sẽ kéo dài sự sống thui chột, èo uột trong ăn năn, trong mặc cảm, trong ray rứt không yên của lương tâm, tất cả mọi người. Và của ngay chính em nữa.

    Chàng nghiêng người xiết ghì lấy tôi. Hơi thở chàng phà mạnh trên mặt tôi. Cánh tay chàng xiết chặt mãi, tới độ tôi nghẹt thở và cảm thấy như mình sắp gãy vỡ thành nhiều mảnh.

    Chúng tôi trở về phòng vừa ngồi xuống giường cởi áo ngoài thì nghe tiếng động bên phòng dì Năm.

    Qua một thoáng yên lặng nặng nề, dì Năm xuất hiện ở ngách cửa. Tôi không dám ngước nhìn. Chất vừa cởi giầy vừa nói:

    -Dì khó ngủ?

    Dì Năm đáp:

    -Không. Dì ngủ một giấc rồi đó chớ. Bỗng dì tỉnh dậy không thấy Mị đâu. Dì lo quá. Sau dì đoán là nó và con đi ra ngoài.

    Giọng nói của dì Năm không thoáng gợn một chút ngái ngủ nào. Tiếng nói trầm trầm, lạnh lạnh. Rồi như dì hướng về phía tôi.

    -Thôi đi ngủ đi con. Khuya rồi.

    Tôi “vâng” một tiếng nhỏ và lúng túng đứng lên.

    Dì Năm quay lui, xuống bếp.

    Tôi nhìn chàng thật lâu trước khi bỏ vào phòng trong. Chất ngước nhìn tôi yên lặng. Điếu thuốc cũng yên lặng cháy giữa hai kẽ ngón tay chàng.

    Đó là đêm cuối cùng, chúng tôi ở bên nhau. Vì sáng hôm sau, chàng lên đường trở về đơn vị.

    Tôi vào nhà cùng với trạng thái mệt mỏi và hoang mang. Tôi không thể đoán được Ngọc ngồi ở đâu, Kiệm buông tay tôi ra và cái không khí lạnh tối hơn cho tôi biết chắc tôi đã vào đến nhà. Thường Ngọc lên tiếng trước để nhờ tiếng nói đó, tôi có thể định hướng chỗ Ngọc, còn không, Ngọc chạy đến, cầm lấy tay tôi, cho tôi nhận ra.

    Tôi nghe tiếng Kiệm nói, sâu ở phía trong:

    -Thưa cháu đã đón cô về.

    Tôi nghe tiếng dép của Ngọc lại gần. Tôi đứng im sững. (Tôi chắc là tôi đang đứng giữa nhà). Rồi Ngọc đặt tay lên vai tôi. Mùi thơm từ người Ngọc tỏa ra quen thuộc. Tôi cho rằng người đàn ông nào đó, chọn Ngọc sẽ vô cùng sung sướng. Bởi chỉ với hương thơm tự nhiên từ da thịt Ngọc toát ra, cũng đã đủ khỏe người rồi, chứ chưa nói tới việc Ngọc có rất nhiều tính tốt. Những đức tính cần thiết cho một người vợ, mà ác nghiệt thay, bây giờ lại quá hiếm hoi, khó thấy ở những người con gái được gọi là trưởng thành trong thời đại mới.

    Ngọc nắm tay tôi, kéo đi. Hình như tay tôi chạm vào vai ghế, tôi ngồi xuống chiếc ghế Salon nhỏ, chắc Ngọc cũng ngồi ở một trong ba chiếc còn lại.

    Tôi chưa kịp hỏi Ngọc về điều mà Ngọc nói với Kiệm quan trọng, tôi phải về ngay, Ngọc đã lên tiếng trước:

    -Hôm nay Mị sao vậy?

    Câu hỏi đột ngột của Ngọc làm tôi ngỡ ngàng, chưng hửng với ít nhiều sợ hãi.

    Tôi chối:

    -Đâu có gì đâu Ngọc. Vẫn vậy.

    Tôi chép miệng làm bộ than tiếc:

    -Người như Mị bây giờ thì còn làm gì có bất ngờ, có khác thường xảy ra nữa.

    Ngọc không tin và vẫn đầy ngờ vực:

    -Không. Mị nói dối. Chắc chắn là có chuyện gì đó vừa xảy ra cho Mị.

    Tôi nghĩ đến Kiệm. Hay Kiệm đã nói với Ngọc về người đàn ông chân cụt mà nó thấy ngồi nói chuyện với tôi. Không. Vô lý. Chúng tôi về cùng một lượt với nhau. Tôi đâu có nghe, dù tiếng xì xầm nhỏ, của nó với Ngọc, ngoài câu “Thưa cháu đã đón cô về”.

    Tôi làm cứng hỏi vặn lại Ngọc:

    -Căn cứ vào đâu Ngọc lại hỏi câu ấy.

    Ngọc cười -hình như Ngọc cười, tôi nghe thấy tiếng cười dù là tiếng cười rất nhỏ:

    -Trông mặt thì người ta biết chứ còn căn cứ vào đâu nữa. Cái mặt thất sắc, cái mặt lạc thần, âu lo, thấy rõ.

    Tôi ngập ngừng giây lát trước khi quyết định thú thật với Ngọc về chuyện tôi gặp người đàn ông chân cụt. Tuy nhiên tôi chỉ nêu nghi vấn là y có thể là em ruột hay em họ của Chất chứ không nói về chuyện y thú nhận y yêu tôi, y đã theo đuổi tôi từ nhiều năm nay.

    Tôi có cảm tưởng là Ngọc nghe rất chăm chú. Thỉnh thoảng, Ngọc thở dài như vừa chịu đựng một trạng thái căng thẳng đè nặng của tinh thần.

    Khi dứt lời, cả hai chúng tôi cùng im lặng. Tôi cũng không biết mình phải nói gì thêm dù rất muốn phá tan bầu không khí u uất ấy. Tôi nghe được hơi thở điều hòa của Ngọc.

    Chập lâu, Ngọc nói:

    -Mị có hẹn gặp lại ông ta không?

    Tôi đáp nhanh:

    -Chiều nay, hay ngày mai cùng ở băng ghế đá, ngay trước cửa cư xá. Y nói y sẽ chờ Mị, dù Mị không đúng hẹn.Vì y bảo y có nhiều điều muốn nói.

    Tôi không dò được phản ứng trên gương mặt Ngọc. Cả hai chúng tôi lại rơi vào một sự im lặng khác. Cái im lặng rất khó chịu đối với một người đã mù lòa như tôi, vì tôi không thể biết một điều gì khác hơn ngoài chính sự im lặng ấy.

    Lần này thì chính tôi đập vỡ cái vỏ bao cứng của sự im lặng kỳ quái kia. Tôi nói:

    -Ngọc nghĩ gì vậy?

    Hình như Ngọc đứng dậy. Rồi tôi nghe Ngọc ngồi ghé trên vai chiếc ghế tôi đang ngồi, tay Ngọc lùa vào mái tóc tôi, Ngọc nói:

    -Ngọc muốn gặp anh ta.

    Sau câu nói, giọng thấp xuống, tôi có cảm tưởng Ngọc đang đắn đo, cân nhắc một điều gì. Tôi lắng chờ. Quả nhiên, Ngọc nói tiếp:

    -Mị thấy như vậy có tiện không?

    Tôi bật cười, kéo tay Ngọc không xuống vai mình:

    -Có gì bất tiện? Hơn nữa, đó là một điều cần thiết, chính Mị mong muốn vậy mà chưa kịp nói ra đó thôi.

    -Tại sao Mị muốn vậy. Mị thử nói xem ý nghĩ của Mị có trùng với Ngọc không nào.

    Tôi thấy mình phải thận trọng, phải nghĩ kỹ những lý lẽ, trước khi nói ra, sợ lỡ không trùng hợp với Ngọc, Ngọc sẽ bỏ ý định đã có. Và như vậy, thật phiền cho tôi.

    Đắn đo một hồi, tôi nói:

    -Mị muốn có Ngọc trong lần gặp lại y chiều nay hay ngày mai, vì Mị muốn nhìn thử xem y có điểm nào giống Chất không là một. Thứ nữa, Ngọc sáng suốt hơn Mị, sau lần gặp đó, Ngọc có thể biết được phần nào ý muốn thực của y. Nghĩa là y muốn cái gì? Y mưu định cái gì. Hay y là người của gia đình Mị, của Chất nữa biết đâu chừng, theo dõi Mị.

    Ngọc cười đập đập vào vai tôi:

    -Mị đa nghi quá. Thế nhưng chúng mình đã có điểm gặp nhau, đó là để Ngọc xem y giống hay ít ra có nét nào gần với Chất không.

    Tôi cũng cười vì sự lo lắng không đâu của mình. Nhưng rồi tôi lại áy náy ngay sau đấy. Tôi nói:

    -Mà liệu Ngọc còn nhớ mặt Chất không?

    Lần này thì Ngọc không ngồi nguyên nữa, hình như Ngọc đứng thẳng người, Ngọc nâng cằm tôi, cười nghiêng ngả:

    -Trời ơi. Mị nghĩ là Ngọc không nhớ Chất sao? Tuy Ngọc chỉ gặp Chất trước sau đó dăm lần ở nhà Mị và một lần ba đứa đi chơi chung dọc theo con đường Nguyễn Du, băng qua vườn Tao Đàn, nhưng Ngọc nhớ như in. Giờ Chất có thay đổi mấy, có hóa trang cách nào thì Ngọc cũng nhận ra như thường.

    Câu nói vô tình của Ngọc, gợi tôi cái ý nghĩ mà chính tôi cũng thấy là hoàn toàn không tưởng, vô lý, nhưng nó vẫn lóe lên, dù rất yếu ớt “hay người đàn ông chân cụt đó là Chất?”

    Ăn cơm xong tôi đi nằm ngay, nhưng không tài nào chợp mắt được. Những hình ảnh lộn xộn. Những ý nghĩ mâu thuẫn lùng bùng trong óc tôi. Ngọc nằm bên cạnh chừng như cũng không ngủ được. Ngọc nắm tay tôi, vỗ nhè nhẹ:

    -Ngủ đi. Làm gì mà trằn trọc dữ vậy?

    Tôi mở mắt trừng trừng trong màu xám đục. Cùng với đôi mắt mở hết kẽ, một màn nước mỏng kéo ngang, dày dần trước khi thành dòng theo hai khóe chảy xuống. Không trả lời vào câu nói của Ngọc, tôi hỏi:

    -Mấy giờ rồi?

    Im lặng một lát, Ngọc đáp:

    -Hai giờ mười lăm.

    Còn ngủ gì được nữa, tôi sực nhớ đến lời Kiệm hồi trưa, bảo về ngay, Ngọc có chuyện quan trọng muốn nói. Tôi hỏi Ngọc về chuyện đó. Ngọc nói giọng điềm đạm:

    -Để lát nữa, sau khi Ngọc gặp người đàn ông kia đã. Bây giờ Ngọc thấy không còn cần nữa. Mọi sự có thể khác.

    Câu nói của Ngọc càng làm tôi thêm hoang mang. Tôi ngồi dậy bước ra ngoài hiên. Gió thổi mát da mặt. Buổi trưa biển êm vắng với những con sóng vỗ nhẹ ngoài xa. Nỗi buồn thấp thoáng như những cành lá trong tư tưởng tôi, bập bềnh.

    Tôi nghe tiếng chân guốc của Ngọc.

    Môt ý nghĩ khác đến với tôi. Nếu quả thực người đó là Chất. Tôi sẽ làm sao? Làm gì? Làm cách nào khi tôi đã xác nhận với Chất, chính tôi là Mị. Trời! Không! Tôi không thể tưởng tượng, cũng như không thể chịu đựng được sự gặp lại nhau trong tình cảnh này. Tôi không thể là một gánh nặng, của chàng, cái gánh nặng, với đôi mắt mù lòa. Không. Chắc rồi tôi sẽ tự giải quyết đời mình. Chàng đã như vậy, chàng cần phải có một người khác. Một người không tật nguyền săn sóc chàng. Không. Tôi không thể sống. Không thể kéo dài lâu hơn, đời sống tôi. Nếu quả thực, người ấy là chàng thì ước vọng cuối cùng của đời tôi như vậy cũng thỏa nguyện rồi. Tôi chỉ muốn để chàng thấy đến phút cuối cùng, tôi vẫn là của chàng, tôi vẫn là Mị, ngày nào. Tôi vẫn… vâng, tôi vẫn chỉ có một đời, chỉ có một trái tim, một cuộc tình. Đó là sự thực, mặc dù một sự thực có vẻ nhiễm nhiều lãng mạn, tiểu thuyết. Tôi vẫn hằng nghĩ thế. Người phụ nữ có thể có cả chục lần yêu. Nhưng rốt cuộc, xét cho cùng, họ cũng chỉ có một cuộc tình, chỉ một cuộc tình nào đó, là đúng, là thật, ngoại giả, tất cả còn lại chỉ là hư ảo. Chỉ là chiếc bóng, ngó thấy nhìn thấy, nhưng không thể nào cầm nắm, không thể đắm chìm, không thể dìm chết cả hồn mình trong nó.

    Ngọc đem chiếc áo dài ra cho tôi, bảo thay áo đi rồi ra bãi. Tôi cầm tấm áo dài trong tay, mà lệ rưng rưng muốn chảy. Tôi hỏi Ngọc:

    -Áo màu gì vậy Ngọc?

    -Màu mà Mị thích đó.

    -Màu trắng?

    Ngọc cười, tôi nghe rõ tiếng Ngọc cười và bàn tay đập trên vai tôi:

    -Chứ còn màu gì nữa?

    -Màu xanh.

    -Sao lại màu xanh?

    -Chất thích hai màu đó nhất.

    -Nhưng Ngọc thấy Mị đâu có tấm áo nào màu xanh đâu.

    Tôi gật đầu:

    -Phải rồi. Mị đâu có áo màu xanh nữa. Từ ngày ấy, Mị chỉ có hai thứ màu, đen và trắng.

    -Hay Mị mặc áo của Ngọc nha.

    -Màu xanh hả? Nhưng làm sao vừa.

    -Vừa mà. Mị và Ngọc cũng khổ người đó.

    Tôi ngẫm nghĩ một lát, xong lắc đầu:

    -Thôi. Để Mị mặc áo của Mị, một lần chót.(Tôi bật cười) không lẽ lần cuối cùng mà lại đi mặc áo mượn của người khác. Kỳ há Ngọc.

    Ngọc day người tôi lại. Tôi không nhìn thấy gì hết (vẫn một màu xám đục) nhưng hơi thở sát gần của Ngọc cho tôi biết, tôi đang đối mặt với Ngọc và chắc là Ngọc đang đăm đăm nhìn tôi. Ngọc nói giọng gay gắt:

    -Mị vừa nói gì vậy? Biết không?

    Tôi vội nói dối để Ngọc khỏi ngờ vực:

    -Biết chứ Mị xin lỗi? Mị không định nói thế.

    -Mị không được làm bậy đó nha. Ở đây với Ngọc mà Mị làm bậy là Mị không thương Ngọc đó. Thôi Mị đi thay áo đi.

    Ngọc nói và dìu tôi vào phòng.

    Tôi cởi áo mà nước mắt ràn rụa như những con sóng từ ngoài xa khơi xô lấn nhau ùa tới. Tôi đứng lặng ở trong phòng tối có tới gần năm phút, Ngọc bất thần hé cửa bước vào:

-Trời ơi. Thay áo đi chứ Mị. Đứng làm gì vậy.Vừa nói vừa bật mở hàng nút áo cho tôi. Cơn xúc động hơi nguôi, lại òa vỡ một lần nữa. Tôi không còn bình tĩnh giữ gìn. Tôi ôm lấy Ngọc, người bạn cuối còn ở bên tôi lúc cuối cùng của đời tôi sớm héo. Tôi khóc nức nở như một đứa trẻ con. Tôi khóc nhàu, cho tới lúc giật mình vì nghe thấy tiếng khóc của Ngọc bị cơn xúc động ở trong tôi lôi cuốn theo, cũng đã khóc.

Không biết Ngọc khóc vì tôi hay Ngọc khóc thương cho tâm sự của Ngọc. Dần dần, tôi nín được và quay lại dỗ dành Ngọc:

-Ngọc, nín đi Ngọc, Mị không khóc nữa đâu.

Tay tôi vỗ trên người Ngọc. Cử chỉ vụng về của tôi, hình như chỉ làm Ngọc khóc lớn hơn mà thôi.

Ngọc vậy đó. Không khóc thì thôi, đã khóc Ngọc khóc rất nhiều. Tiếng khóc nấc của Ngọc, nghẹn ngào đau đớn đến xé ruột.

Ra tới bãi, vừa lúc người đàn ông tới.

Tiếng chân nạng mỗi lúc một tiến đến gần hơn.

Tôi bấm tay Ngọc:

    -Hắn đó.

    Ngọc nhìn về hướng có tiếng nạng gỗ. Trong tầm mắt thấy, hơi ngỡ ngàng khi nhận thấy cái dáng vẻ quen quen của người đàn ông cụt chân đang nhắm phía nàng tiến đến, mặc dù với chiếc gỗ kẹp ở bên nách, người anh ta nghiêng, cúi về phía trước. Nhưng Ngọc không tài nào nhận ra người đó là ai vì một nửa khuôn mặt của anh ta bị nám cháy.Vết nứt rạn căng ra, tạo thành những đường chỉ trắng ngoằn ngoèo như một miếng da trâu bị thui chín. Ngọc rùng mình khi chạm vào tia mắt nhìn thẳng lạnh lùng, những tia máu hằn nổi trong con ngươi.

    Tôi nghĩ Ngọc bị thôi miên bởi sự chậm rãi tiến đến của người đàn ông, quên khuấy tôi đang hồi hộp, lo âu, ngồi bên cạnh nàng, mắt mở lớn mà vẫn không thể thấy gì hơn ngoài màu đen đục mờ, vẩn trắng.

    Không đủ kiên nhẫn chờ đợi lâu hơn nữa. Tôi bấu vai Ngọc:

    -Sao?

    Ngọc như người vẫn còn đi trong cơn mê:

    -Cái gì?

    -Người đàn ông.

    -Anh ta đang đến.

    Ngọc nói nhỏ hơn, cùng với tiếng nạng gỗ mà tôi nghe được như sát gần. Tuy nhiên, tôi cố hỏi thêm một câu, nhưng tôi ngượng nên không dám nói rõ ý mình:

    -Ngọc thấy thế nào?

    Ngọc chưa trả lời tôi đã nghe tiếng người đàn ông:

    -Chào cô Mị và Ngọc.

    Ngọc bàng hoàng. Tôi rúng động kinh hãi. Hình như Ngọc cũng vậy. Không khí lặng đi trong một giây nặng nề, sần sượng.

    Tôi nghe Ngọc nói giọng run run:

    -Ông biết tôi.

    -Vâng. Tôi biết cô.

    Giọng người đàn ông đanh đanh rõ từng tiếng.

    Tôi không dằn được câu hỏi:

    -Ai vậy Ngọc?

    -Ngọc không biết.

    Người đàn ông mặt nám cháy cười ròn:

    -Vâng. Cô không biết tôi đâu. Hơn  nữa, mặt tôi bị nám cháy làm sao nhận ra tôi được. Không ai nhận ra tôi, kể cả gia đình tôi. Nhưng điều đó không có gì quan trọng hết.

    Hình như Ngọc lắc đầu, nhìn chăm chăm vào mặt người đàn ông, nàng mong sẽ tìm ra một vài nét quen thuộc đặc biệt nào đó, để từ đấy truy ra tông tích của anh ta.

    Tôi nghe Ngọc nói:

    -Ông nói vậy chứ. Tại sao lại không quan trọng.

Với tôi, rất quan trọng.

    -Tại sao? Người đàn ông cao giọng hỏi.

    -Ở chỗ ông tìm đến đây, gặp chúng tôi.

    Người đàn ông cười, tiếng cười nhỏ, vỡ tan trong hàm răng gương mặt dịu xuống, đôi mắt với những tia nhìn buồn bã, trùng lại, khiến anh ta bớt vẻ dữ dằn, ghê khiếp:

    -Trước sau gì, rồi cô cũng sẽ biết tôi là ai. Bây giờ thì chưa cần lắm.

    In là Ngọc bắt đầu cảm thấy khó chịu về thái độ úp mở, bí mật của anh ta. Nàng nói, giọng hơi xẵng:

    -Cũng được. Bây giờ ông cho phép tôi hỏi ông một câu.

    Người đàn ông nói ngay:

    -Cô cứ tự nhiên.

    -Ông kiếm bạn tôi để làm gì?

    Chắc Ngọc tưởng câu hỏi thẳng đột ngột ấy của mình, người đàn ông sẽ không tránh khỏi bối rối, lúng túng. Nhưng Ngọc nhầm, chính Ngọc là kẻ lúng túng, bối rối vì anh ta trả lời thản nhiên không do dự:

    -Tôi muốn gặp cô.

    -Tôi? Ngọc hỏi lại.

    -Vâng cô Ngọc.

    Người đàn ông day mặt hướng về phía Mị nói tiếp:

    -Tôi xin lỗi cô Mị, nếu tôi có làm phiền cô trong những ngày qua, và trong những giây phút sắp tới.

    Tôi hoang mang, như kẻ đã mù lòa lại bỏ giữa một khu rừng đầy tiếng động. Tôi nói không kịp suy tính:

    -Không. Không. Ông cứ tự nhiên. Đừng thắc mắc về tôi.

    Đợi tôi dứt lời, người đàn ông lại quay về phía Ngọc:

    -Giờ cô đang ngạc nhiên?

    Tôi cảm thấy Ngọc thực sự bị dồn vào thế thụ động. Ngọc lúng túng không biết người đàn ông này là ai. Hắn muốn gì, có liên hệ nào không với Ngọc mà sao y có vẻ tự tin, giọng điệu thách đố như vậy đối với Ngọc. Tuy nhiên, Ngọc không thể có một phản ứng nào hơn là tiếp tục nói cứng:

    -Vâng. Quả thực tôi vô cùng kinh ngạc. Bởi tôi không quen biết ông. Nên tôi nghĩ rằng tôi không có điều gì để nói cũng như để ông phải tìm kiếm hết.

    Người đàn ông phản đối:

    -Không. Cô đừng nói thế. Chúng ta có rất nhiều điều để nói với nhau, mà cô chưa biết đấy thôi.

    Đến đây có lẽ Ngọc đành thúc thủ. Ngọc không thể phỏng đoán gì được nữa. Ngọc đã bắt đầu linh cảm thấy qua tia mắt nhìn dại chết của người đàn ông một chuyện ghê gớm sắp xảy đến cho Ngọc. Có thể trong một vài giây phút nữa, Ngọc sẽ phải đối đầu với những sự thực tàn nhẫn, đối đầu với quá khứ, những mảnh đời đau thương, khốn quẫn mà Ngọc đã quên hoặc đã cố tình không bao giờ nhớ tới.

    Người đàn ông như cũng nhận ra sự nắm vững được thế chủ động của mình nên anh ta tiếp tục kéo dài cuộc chơi của một thứ mèo vờn chuột.

    Ông ta nói, giọng kéo dài pha lẫn ngậm ngùi thương hại:

    -Cô Ngọc vẫn chưa nhận ra tôi.

    Tôi nghe Ngọc quả quyết:

    -Tôi không hề quen biết ông.

    Tôi lặng lẽ theo dõi câu chuyện của hai người cũng không tránh được sốt ruột lo lắng. Tôi nói:

    -Tôi nghĩ ông nên nói ông là ai cho bạn tôi biết. Không thể có một cuộc đối thoại như vậy. Nó quá bất công, giữa một kẻ biết rõ kẻ mình đang đối diện và một kẻ không hề biết tí gì.

    Người đàn ông dịu giọng:

    -Cô nói đúng. Cô Mị quá bất công. Nhưng tôi đã nói tên tôi cho cô biết. Cô chưa nói lại với cô Ngọc sao?

    Tôi đáp:

    -Tất nhiên đã. Nhưng bạn tôi chỉ mới nghe cái tên đó lần đầu.

    Người đàn ông gật gù:

    -Lần đầu. Làm sao khác hơn. Khi đó là cái tên tôi tự kiếm lấy cho mình sau khi hồi sinh và lành lặn mọi vết thương.

    -Như vậy hóa ra…

    Người đàn ông ngắt ngang câu nói của Mị:

    -Đó là một cái tên giả.

    -Còn tên thật? Ngọc hỏi, giọng không còn che giấu được hoang mang.

    -Tôi quên. Quên mất tên thực của mình, lúc mất đi vì những vết thương máu ra nhiều quá.

    -Sao lại vô lý đến như vậy được? Tôi không tin, Mị nói.

    -Tôi cũng vậy. Người đàn ông nói, giọng bình thản.

    Giọng Ngọc mất bình tĩnh:

    -Thôi. Trò chơi mà ông cho chúng tôi như vậy đủ rồi. Giờ ông muốn gì?

    Người đàn ông rút thuốc hút:

    -Cô gấp lắm?

    -Không gấp. Nhưng tôi không thể kéo dài những giây phút lẩm cẩm với một người mất trí. Tôi không thừa thì giờ.

    Người đàn ông giở điếu thuốc lá khỏi môi, lẩm bẩm:

    -Người mất trí. Người mất trí. Ha Ha…

    Tiếng cười anh ta cất cao. Mị nghe lạnh và buốt như những mũi kim đâm sâu trên da thịt. 

    Bỗng người đàn ông ngắt ngang tiếng cười, giọng nghiêm nghị: 

    -Tôi muốn hỏi cô về… đứa con. 

    Ngọc giật mình, rung động: 

    -Ông nói gì? 

    -Đứa con của bốn năm trước. Người đàn ông nói, tiếng nói rời rã từng chữ một.

    Ngọc la lên, tay giơ hổng trên không như muốn bưng lấy mặt người đàn ông: 

    -Anh. Thẩm.

    Người đàn ông nhanh nhẹn ngả người ra để tránh đôi bàn tay điên cuồng của Ngọc, giọng vẫn thản nhiên, lạnh lùng không một chút xúc động: 

    -Cô nhầm rồi. Không phải Thẩm. Không phải tôi.

    Trước sự kinh ngạc của tôi, chắc người đàn ông chân cụt biết rằng tôi hoàn toàn không hề hay biết gì về chuyện Ngọc có một đứa con. Anh ta nói: 

    -Sự thực giản dị lắm. Không có gì ghê gớm. Đó là một sự thực thường, xảy ra rất nhiều trong xã hội này. Một xã hội chiến tranh liên miên. Điều đó xấu hay tốt tùy theo quan điểm của từng người. 

    Trong khi người đàn ông còn đang dài dòng, tôi nghe Ngọc nói, giọng van lơn: 

    -Thưa ông, tôi xin ông đừng nói thêm một tiếng nào hết. 

    Người đàn ông nhún vai tỏ dấu ân hận: 

    -Vâng, tôi sẽ không nói gì thêm. Tôi cũng không định nói thế. Sự thực, tôi chỉ muốn biết về đứa bé. Một đứa bé gái. 

    Tôi thấy đã đến lúc cần phải giúp bạn, làm sáng tỏ vấn đề: 

    -Nhưng trước hết, thưa ông, tối thiểu ông cũng phải cho biết ông là ai, hoặc ra thì ông cũng phải nói ông có liên hệ gì với đứa bé đó mới được chứ.  

    Người đàn ông mừng rỡ, như đã nắm được đầu mối quan trọng của vấn đề:  

    -Như vậy là cô, cô Mị, cô cũng có biết đứa bé đó. 

    Mị cười. Nàng không trông thấy nét mặt người đàn ông ra sao, nhưng nàng đoán được vẻ hớn hở của anh ta. Tôi đáp: 

    -Vâng. Tôi cũng được biết chút ít. Không nhiều lắm.

    Người đàn ông thở ra, giọng tràn đầy tâm sự: 

    -Thật khổ. Tôi đi tìm bao nhiêu năm nay, giờ mới ra tung tích. Tưởng đã phải nửa đường bỏ cuộc thật là… 

    -Thật là sao? Ông nói nãy giờ tôi vẫn không hiểu. Mị nói.

    Người đàn ông lắc đầu, vẫn nhìn Mị, anh ta như quên hẳn sự tật nguyền của nàng.

    -Thật là ân hận cho tôi. 

    Người đàn ông hơi ngập ngừng một lát, nhưng rồi lại tiếp ngay: 

    -Vì tôi có nhận lời trăn trối của một người. Một người đã khuất… 

    Tôi nghe Ngọc bỗng òa lên khóc lớn. Nàng thét lên: 

    -Anh. 

    Ngọc chỉ kêu được một tiếng ngắn rồi lả người ngả vào Mị.

    Mị hoảng hốt đỡ lấy bạn, và không hiểu đầu đuôi sao, hơn nữa không trông thấy gì nên Mị sợ hãi, òa khóc.

    Sóng đem buổi chiều vào chân cát với những tiếng vỗ gầm của con nước lên.    

Ráng chiều đỏ ối, nhuộm cả một chân trời.



ĐOẠN KẾT

    Một buổi sáng, trời còn đầy sương mù, những người từ khắp nơi, tủa về trung tâm thành phố, nơi giáo đường đang bắt đầu những khóa lễ đầu tiên của một ngày nghỉ. Những tấm lá bàng vụn vỡ dưới những bước chân hăm hở, nghe vui tai cùng với tiếng nói cười của trẻ thơ. Đoạn đường nào, nhất là từ những ngõ ngách dẫn vào thành phố, cũng như đang được sống dậy, thật sớm.Trong một ngày hội lớn.

    Trong khi đó, một thiếu phụ trẻ tuổi, mặc áo đen, đầu chít thêm một vuông khăn lụa màu xám tro, lầm lũi đi ngược chiều bên kia con đường vòng theo bờ biển, dưới những tàn cây bàng đen sẫm. Mặt người thiếu phụ luôn cúi ngầm xuống, như lẩn tránh sự dòm ngó của những người chung quanh, nên người ta không thể nhận ra, người đó là ai, có điều nhớ dáng dấp thanh thanh, chiếc lưng thon cho ta phỏng đoán người đàn bà đó còn trẻ. Thế thôi.

    Người đàn bà đi mãi gần hết con đường vòng theo bãi biển, trước khi lên dốc để lên ngọn đồi trên cao, thì rẽ tay trái, con đường nhỏ dẫn vào trung tâm thành phố. Người đàn bà lại đi thêm một đỗi xa, rồi ngừng lại trước một ngôi biệt thự quét vôi trắng. Người thiếu phụ trẻ bấm chuông. Nàng bấm một cách rụt rè như e ngại tiếng chuông reo sẽ làm người trong nhà nghe thấy. Một lúc khá lâu sau, từ căn nhà nhỏ thụt vào trong bên cạnh ngôi nhà chính, một bà già mặc áo len, choàng khăn lạnh lò dò đi ra. Thỉnh thoảng cơn ho làm bà ta khựng lại, ôm ngực. Mặt thiếu phụ trẻ rạng rỡ hẳn ra, khi trông thấy bà già. Nàng mở ví lấy mấy tờ giấy bạc, cầm sẵn nơi tay. 

    Bà già ra tới cửa, nhưng không mở cổng vội. Bà rùn người, ngó qua những song sắt của chiếc cửa lớn. Người thiếu phụ trẻ tuổi, cũng thấp người ngó qua những khe cửa hở, miệng lí nhí: 

    -Bà đấy hả? Cháu đây.

    Nàng vừa chào bà cụ già, vừa đẩy nắm tiền qua khe sắt. Bà cụ già chừng như đã nhận ra người quen, cố mỉm cười, nụ cười rúm ró méo xệch của một người còn ngái ngủ sau một đêm trằn trọc, gật đầu: 

    -A cô. Hôm nay cô đón cháu sớm vậy. Giờ này sợ Sơ giám đốc không cho đón cháu đâu. 

    Người thiếu phụ trẻ thoáng một vẻ thất vọng trên gương mặt xanh xao thiếu máu nhưng liền sau đó, nàng gật đầu giọng tin tưởng: 

    -Dạ, cháu biết. Chưa đến giờ. Nhưng cũng gần tới rồi bà. Còn chừng nửa tiếng nữa thôi.

    Nàng ngập ngừng như để tìm lý lẽ vững chắc, hầu lay chuyển bà cụ già, nói tiếp: 

    -Hôm nay cháu muốn xin đón về sớm cho cháu nhỏ đi xem lễ. Bà giúp cháu, cháu hứa là cháu sẽ đem cháu nhỏ về sớm.

    Trong óc bà cụ già, hình ảnh một đứa bé gái bốn năm tuổi, xinh xắn hiện ra. Nó là con của người thiếu phụ này. Nàng mới đem gửi nó đến đây nhờ trông nom được hơn một năm. Hình như mẹ nó bận công việc làm ăn ghê lắm, nên đôi khi cả tuần, hai tuần không thấy lại thăm nó. Cũng có khi một tuần tới thăm hai, ba lần, thường với những giờ giấc không đúng với điều lệ, đã được quy định sẵn của trung tâm. Tuy nhiên, lần nào bà cũng cho phép hai mẹ con người thiếu phụ này được gặp nhau vì bà thấy tội tội làm sao ấy. Cả mặt đứa nhỏ lẫn mặt mẹ nó, lúc nào cũng rầu rầu, mắt luôn ướt như vừa khóc xong. Hơn nữa không lần nào tới thăm con mà người thiếu phụ quên mang theo quà cáp hoặc cho bà tiền, có điều là chưa bao giờ bà thấy người thiếu phụ này lại thăm con sớm như vậy, bà cũng không nghe được một lần nào, nói về đứa nhỏ theo đạo Công giáo. Chắc là có chuyện chi quan trọng lắm đấy. Bà già nghĩ thầm.

    Sự im lặng của bà cụ già làm vẻ mặt của người thiếu phụ đã thiểu não lại càng nhiều não thêm. Nàng áy náy, âu lo, không biết liệu có được lãnh con ra không.

    Mắt nàng đã long lanh muốn khóc.

    Giữa lúc đó, bà cụ già rút xâu chìa khóa lận trong bụng ra, tra vào ổ khóa lớn. Tiếng lách cách của khóa và sợi dây xích va vào thành cửa sắt, làm người thiếu phụ khấp khởi mừng thầm trong bụng. Cánh cửa được đẩy rộng. Người thiếu phụ run run bàn tay, nắm lấy bàn tay bà già nâng lên vuốt vuốt. Bà già chừng như cũng cảm động. Tuy nhiên, bà không trả lời ngay là có cho người thiếu phụ đón con không, bà bảo:

    -Sao sớm quá vậy? Con nhỏ còn đang ngủ. Phải đánh thức nó dậy. Sợ khóc ồn lên. Sợ giám đốc biết thì phiền lắm.

    Người thiếu phụ đoán thầm rằng bà cụ già đã hơi xiêu lòng. Nàng đưa bàn tay bà già lên, áp vào ngực mình:

    -Thôi con lạy bà. Bà giúp con một lần. Một lần này thôi. Con đã lỡ lại đây lần này, con sẽ không lại sớm nữa, con sẽ đợi đúng giờ.

    Thấy tình cảnh người thiếu phụ cũng tội nghiệp, bà cụ gật đầu:

    -Vâng, thì thôi. Tôi cũng cố giúp cô một lần này. Mà một lần này nữa thôi nha cô. Lần sau có lại, cô lại đúng giờ nha cô. Sơ giám đốc mà biết tôi giúp cô thế này là rầy chết à nghe.

    -Dạ, vâng. Thôi bà giúp cho con một lần chót.

    Bà cụ già quay vào, sau khi đã dặn dò người thiếu phụ đứng chờ và cẩn thận khép kín cánh cửa.

    Lẫn vào màn sương mù còn dày đặc, người thiếu phụ khom lưng nhìn qua khe cửa sắt, ngó theo dáng chậm chạp của bà cụ già khuất mờ dần.

    Trời rạng tỏ dần dần ở phía bờ biển, người thiếu phụ trẻ tuổi nhìn thấy bà cụ già trở ra, dắt theo một đứa bé chân thấp chân cao, rảo bước như chạy theo chân bà cụ già.

    Mắt đứa nhỏ hếch lên hướng về phía cổng trung tâm. Có lẽ nó chưa nhìn thấy người thiếu phụ đứng sau những chấn song của tấm cửa sắt lớn.

    Người thiếu phụ run run những ngón tay bám trên thành cửa khi nhìn thấy rõ mặt con mình.

    Đó là một đứa con gái nhỏ, nước da trắng hồng, khuôn mặt bụ bẫm với hai má lúm sâu đồng tiền. Đôi mắt nó to mở lớn xanh biếc với đôi tròng đen láy. Tuy nhiên, dù không tinh ý, người ta không cũng có thể nhận ra ngay vẻ buồn thảm, lắng đọng trong người nó. Ngay trong dáng điệu của nó, cũng có một vẻ gì khác hơn những đứa trẻ bình thường. Dáng đi chững chạc, gương mặt trang nghiêm, phẳng lặng.

    Đứa nhỏ mỗi lúc một tiến gần tới cổng. Người thiếu phụ trẻ như không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi trong yên lặng thêm nữa, nàng đẩy tung một bên cửa, vừa lúc đứa trẻ trờ tới, đang ngơ ngác.

    Trông thấy mẹ, đứa nhỏ giựt mạnh tay khỏi tay bà cụ già, nó nhào tới, ôm lấy người thiếu phụ:

    -Mẹ. Mẹ…

    Tiếng nó phát ra, giọng lạc như giọng một con mèo ốm yếu. Cùng với tiếng kêu trầm thống đó, nước mắt nó vòng quanh đôi mắt thơ dại.

    Người thiếu phụ trẻ tuổi ôm lấy con, cũng rớt nước mắt:

    -Con. Con.

    Bà cụ già đứng trước cảnh hai mẹ con ôm nhau cũng tần ngần, không biết nói gì.

    Hai mẹ con ôm  nhau nước mắt tuôn tràn. Đứa nhỏ ôm cứng mẹ. Nó áp mặt vào bụng mẹ như để hít đầy lồng ngực hơi hướng của mẹ nó, cho bỏ sau bao nhiêu ngày xa cách.

    Một lúc sau, người thiếu phụ trẻ tuổi như chợt tỉnh cơn mê, đưa tay chùi nước mắt, ngước nhìn bà cụ già, vẻ đầy biết ơn nói:

    -Cháu cám ơn bà nhiều. Giờ bà cho cháu đón cháu bé về. Chiều nay, đúng giờ, cháu sẽ đưa cháu bé lại.

    Bà cụ già gật đầu, vẻ ái ngại:

    -Ừ. Thôi đi đi. Không có hết giờ. Nhớ cho con nhỏ nó về sớm nha. Đừng về trễ như mọi bữa đó nghe.

    Người thiếu phụ trẻ gật đầu tới tấp. Nàng như sợ bà cụ già đổi ý.

    Đứa nhỏ níu chặt tay mẹ. Hai mẹ con quay ra rảo chân bước. Khi ngôi nhà nội trú đã thực sự khuất hẳn ở phía sau, đứa nhỏ mới hỏi mẹ nó:

    -Sao tuần rồi Thứ Năm mẹ không vào thăm con?

    -Tại mẹ bận. Mẹ bận quá, mẹ nhớ mà mẹ không đến với con được.

    -Mẹ không nhớ con sao? Con nhớ mẹ lắm.

    Người thiếu phụ trẻ tuổi lắc đầu:

    -Sao con nói vậy. Mẹ không nhớ con thì nhớ ai.

    -Thứ Năm tới, mẹ có đến thăm con không?

    Người thiếu phụ gật đầu, không đáp. Đứa nhỏ chậm bước, nó ngước nhìn mẹ nó, thấy mắt đầy lệ. Nó ngạc nhiên kêu:

    -Sao mẹ khóc? Mẹ giận vì đến thăm con hả?

    Người thiếu phụ lắc đầu, trong khi nước mắt nàng lại tuôn chảy nhiều hơn, nàng vuốt vuốt mái tóc con.

    -Không con. Tại mẹ buồn.

    -Mẹ buồn gì? Ai làm mẹ buồn?

    -Không ai hết.

    -Thế tại sao?

    Đứa nhỏ tiếp tục hỏi cho ra lý lẽ. Người mẹ nói nhỏ, nhưng nó vẫn nghe kịp:

    -Dì Mị mất rồi.

    Trong óc đứa bé, hình ảnh của một người trạc bằng mẹ nó, đôi lần có đi cùng với mẹ nó, đến thăm nó ở lưu xá. Đó là một người hiền lành, dễ thương, gương mặt phúc hậu. Với đôi mắt to thật to, trong sáng hình như người con gái đó, không thấy đường đi. Luôn luôn nó thấy mẹ nó phải dắt tay dì Mị. Trong tình cảm của nó, dì Mị cũng đã chiếm vị trí quan trọng. Dì Mị rất thương nó. Gặp nó lần nào. Dì Mị cũng vuốt ve, rờ rẫm mặt nó, xong bảo “con giống mẹ con lắm”. Nó thích nhất câu nói ấy. Có lẽ tại vì nó không có cha, nó không biết mặt cha nó ra sao hết, nên nó chỉ luôn mong mỏi mọi người bảo nó giống mẹ nó mà thôi.

    Giờ dì Mị chết, người bạn thứ hai, sau mẹ nó, như vậy là đã không còn. Nó không tiếc những gói kẹo, những câu chuyện cổ tích mà dì Mị đã dành cho nó, nhưng nó tiếc những cử chỉ vuốt ve âu yếm cùa dì Mị. Nó thèm lắm những cử chỉ ngọt ngào ấy. Mẹ nó gặp nó thường hơn, nhưng ít khi có những cử chỉ giống như dì Mị. Nó nghĩ có lẽ mẹ nó bận làm ăn kiếm tiền trả tiền học cho nó.

    Dì Mị không còn, nó biết mẹ nó buồn lắm. Dì Mị là người bạn duy nhất, thân thiết với mẹ nó còn hơn cả chị em ruột nữa.

    Từ lúc nghe tin dì Mị chết, nó nhớ không dám hỏi han gì thêm. Lúc buồn mẹ nó hay bẳn gắt lắm, kinh nghiệm cho nó biết như vậy. Nó cũng không dám hỏi về nguyên nhân cái chết đột ngột kia, nó cũng không dám đề nghị với mẹ cho nó đi thăm Mị. Với đầu óc và trí tưởng non nớt của nó, nó chỉ có thể hình dung, người chết là người đang ngủ, mắt nhắm nghiền, lay gọi cũng đều không biết gì cả. Và bởi thế nó không thấy run sợ khi nghĩ nếu được lại gần dì Mị. Nó sẽ cúi hôn dì Mị như mỗi lần nó gặp. Có khác chăng lần này nó sẽ tự ý chứ không đợi dì Mị yêu cầu nữa, bởi dì Mị có nói được nữa đâu.

    Con đường thưa vắng và dần dần lên cao.

    Nàng đã nhìn thấy trên mặt biển xanh phía dưới.

    Đi thêm một đỗi xa nữa, con nhỏ thấy ngọn đồi với nhiều nấm mộ xây hoặc mới đắp đất dưới những tàn cây dương xanh mát.

    “Dì Mị chôn ở đây”. Con bé nói thầm trong đầu nó, rảo cẳng để theo kịp mẹ nó, đang hăm hở len lách dưới những hàng dương.

    Cuối cùng, mẹ nó dừng lại trước một ngôi mộ còn tươi đất đỏ. Miếng cỏ xanh to bằng tấm thảm đặt trên chốc mộ đã hơi héo úa những rễ cỏ đã ăn bám xuống lòng đất.

    Mẹ nó chỉ tay vào ngôi mộ:

    -Chỗ nằm của dì Năm đấy.

    Con bé gật đầu. Nó cũng muốn tỏ ra là một người lớn, nghiêm tranh, trịnh trọng. Con nhỏ chắp tay trước ngực, đứng im, nhìn ngôi mộ và cố tưởng tượng trong đó dì Mị mến yêu của nó đang nằm ngủ trong khi mẹ nó, người thiếu phụ trẻ thắp hương cắm trên phần mộ. Nàng cũng lấy ra từ trong giỏ xách một bó hoa huệ trắng, đặt trên đầu mộ. Tất cả những công việc nàng được làm trong niềm im lặng tuyệt đối… với những hạt lệ cũng âm thầm chảy.

    Sau một tuần hương thắp và lời khấn nguyện lâm râm, con nhỏ thấy mẹ nó ngồi bệt xuống thảm cỏ bên cạnh ngôi mộ. Nó cũng ghé ngồi theo. Mẹ nó tỳ cằm lên đầu nó. Nó linh cảm thấy, hình như mẹ nó đang ngóng trông, chờ đợi một chuyện gì đó, sắp xảy ra, mẹ nó luôn luôn day mặt nghe ngóng về phía con đường mòn, mà nó vừa được dẫn đi qua, chốc chốc, mẹ nó lại thở dài. Tiếng thở dài não ruột, khiến nó không thể cầm lòng. Nó hỏi:

    -Mẹ lại buồn gì nữa vậy?

    Mẹ nó cúi hôn nó (lâu lắm nó mới được mẹ nó âu yếm như vậy một lần. Thường sau đấy, mẹ nó sẽ nói cho nó nghe một chuyện gì đó hoặc vui hoặc buồn nhưng phần nhiều đều là chuyện quan trọng). Lần này cũng vậy. Quả nhiên sau khi cúi hôn con, người thiếu phụ nói:

    -Nếu một ngày kia, chẳng may mẹ bị tai nạn, mặt mẹ gớm ghiếc, người mẹ không lành lặn nữa, con có thương mẹ không? Con có còn nhìn nhận mẹ nữa không?

    Con nhỏ không hiểu mẹ nó muốn nói gì, nhưng mới nghe chừng đó thôi, nó đã hốt hoảng òa khóc, ôm chặt lấy mẹ nó:

    -Mẹ có làm sao, có thế nào chăng nữa, con cũng yêu mẹ. Nếu mẹ chết, con sẽ chết theo. Làm sao con có thể sống khi không có mẹ, mẹ đừng bỏ con nha mẹ.

    Người thiếu phụ trẻ mỉm cười cúi nhìn con, xoa đầu nó:

    -Không. Mẹ không bao giờ chết cả. Còn con, có con, mẹ không bao giờ chết.

    -Thế sao mẹ hỏi con câu vừa rồi?

    Người thiếu phụ trẻ ngập ngừng:

    -Mẹ có việc.

    -Vậy mẹ nói thẳng ngay với con đi. Chuyện gì mẹ?

    Đứa con gái đưa cả hai bàn tay nhỏ bé lên bưng lấy mặt mẹ nó. Người thiếu phụ trẻ nhìn sâu vào mắt con, cười dịu dàng:

    -Thí dụ, bây giờ con được gặp ba con, con có mừng không?

    Đứa nhỏ nhảy lên, nó đứng thẳng người dáo dác nhìn quanh:

    -Đâu, ba con đâu mẹ?

    Người thiếu phụ điềm đạm kéo tay con ngồi xuống chỗ cũ, nhỏ nhẹ:

    -Khoan đã con. Nếu ba con mặt mũi gớm ghiếc, thân thể không toàn vẹn như mẹ vừa nói lúc nãy, con có nhận ba con không?

    Con nhỏ tròn xoe mắt, phùng má:

    -Sao không mẹ? Ba con mà. Con sẽ hôn ba con. Con không sợ gì hết.

    Người thiếu phụ trẻ vẫn giữ nguyên nụ cười sung sướng.

    Chợt từ phía xa có tiếng nạng gỗ gõ lạch cạch trên con lộ chính.

    Người thiếu phụ trẻ và đứa con gái nhỏ, cùng nín thở lắng nghe.

    Mặt trời đã cao ngang khu rừng dương. Những tia nắng đầu ngày lọc qua màn lá xanh, còn ngấn đọng sương đêm, thành những dòng thủy tinh óng ánh trên nền cỏ ướt. Những ngôi mộ cũng nhuốm một màu vàng tươi, ấm áp.


DU TỬ LÊ

2-1971








Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 16701)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 11969)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18744)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 8940)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8007)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 416)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 755)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 981)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22283)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 13822)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19049)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7736)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8633)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8342)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 10885)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30528)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20707)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25300)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22779)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21556)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19611)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 17921)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19109)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16789)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 15987)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24313)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31732)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34784)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,