Lê Uyên Phương

04 Tháng Bảy 202211:13 SA(Xem: 565)
Lê Uyên Phương

Lê Uyên và Phương, “hợp đồng tác chiến” trên sân khấu 

Chuyện kể, cuối thập niên 1960  đầu thập niên 1970  hai nhà thơ từ Saigòn lên Đà Lạt công tác; nhân tiện, tham dự một số sinh hoạt văn nghệ tại thành phố sương mù nổi tiếng này.

Trong những ngày sinh hoạt với giới trẻ ở Đà Lạt, tình cờ họ được nghe và, chú ý tới dòng nhạc cũng như nghệ thuật trình diễn nồng nàn của đôi song ca ở vùng đất “Hoàng triều cương thổ”. 

Điểm đặc biệt, đôi song ca vừa kể, lại là một cặp vợ chồng trẻ. Rất trẻ. Khi trình diễn, họ như một cặp tình nhân đang ở đỉnh cao nhất của tình yêu đắm đuối. Tựa không lâu, một sớm mai nào, họ sẽ mất nhau.

Một đặc điểm khác, cũng đáng kể không kém: Họ chỉ hát những ca khúc do người chồng sáng tác.

Là những những người vốn có chủ tâm phát hiện, trân quý những tài năng mới ở lãnh vực văn học, nghệ thuật, một trong hai thi sĩ kia đã ngỏ lời mời cặp vợ-chồng-như-tình-nhân về Saigòn. Đôi song ca đó, chính là cặp nghệ sĩ Lê Uyên và Phương.

Những người đầu tiên được hai nhà thơ giao trách nhiệm giới thiệu họ với giới trẻ Saigon, thời điểm ấy, là lãnh tụ sinh viên Đỗ Ngọc Yến, và nhà thơ Đỗ Quý Toàn…

Khi ấy, chiến tranh đã đem tai họa xắn xổ bước vào từng thành phố, ở lại từng căn nhà, trong bối cảnh này, hiện tượng nhạc kêu đòi chấm dứt chiến tranh của Trịnh Công Sơn, như một chất gây nghiện, bắt đầu lan rộng cùng khắp miền Nam. Những người trẻ đô thị nắm tay nhau, tràn ra đường phố. Họ cất cao tiếng hát trên những đổ vỡ. Họ hát, như hát trên những xác người. Hiện tượng đối kháng hay, hành vi chống đối xã hội một cách vô thức của giới trẻ, là một phản ứng tự nhiên, bình thường ở nơi những xã hội có tự do và dân chủ.

Nhưng dù vậy, cõi giới tân nhạc như một chất gây nghiện bất ngờ của Trịnh Công Sơn, vẫn chỉ là một dòng chảy, bên cạnh những dòng chảy tân nhạc khác, có mặt trước đó. Nó vẫn tồn tại. Vẫn được đám đông yêu thích từ nhiều năm, tháng trước. Nó trở thành một món ăn tinh thần mà, người dân miền Nam không thể thiếu. Đó là dòng chảy Tình Ca. Động mạch chủ, nhịp đập chính của cơ thể bất cứ nền âm nhạc của vùng đất hay, thời đại nào.

Cách khác, những hiện tượng, những phong trào âm nhạc, dù đáp ứng được nhu cầu giai đoạn của thời đại, chúng vẫn chỉ là những mạch phụ, bên cạnh nguồn mạch chủ.

Nói tới những mạch phụ, chảy song song với nguồn mạch chính thì, ngoài hiện tượng nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, chúng ta còn có dòng chảy của những ca khúc viết về đời sống, tâm tình người lính nơi tuyến đầu, liên hệ tới máu mủ, ruột thịt, tình yêu thương của họ gửi nơi những người thân, ở hậu phương. Tôi xin được dùng cụm từ “Tình khúc thời chinh chiến,” để chỉ danh dòng chảy này.

Đó là những tình khúc ngợi ca sự hy sinh tuyệt vời của người lính hay, những tiếng thở dài, lời chia buồn trước những tang chế, mất mát của mỗi gia đình hoặc, ở đời sống chung quanh. Một phần đời thực tế, hàng ngày hầu hết người dân miền Nam phải đối mặt.

Khi đề cập tới hiện tượng nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn như một chất gây nghiện, lây lan nhanh chóng giới trẻ miền Nam, tôi không hề muốn nói, điều ấy có nghĩa, lúc nào giới trẻ cũng hùng hục xông ra đường phố, phất cao ngọn cờ chống chiến tranh, đòi hòa bình.

Khi đề cập tới những Tình khúc thời chinh chiến, tôi cũng không có ý nói, điều đó có nghĩa, giới trẻ miền Nam, thường trực sống với niềm hãnh diện, hay ủ rũ đau buồn vì cường độ và hậu quả khốc hại của cuộc chiến.

Trong một ngày, ít hay nhiều, cũng có giới trẻ thành phố thu mình một góc riêng. Lắng nghe, nhìn ngắm, cảm nhận nỗi buồn riêng của hoàn cảnh mình. Phần số mình. Đó là những giây phút họ cô đơn. Nhưng cũng là những giây phút họ sống thật nhất, với chính họ, theo tôi.

Đó cũng chính là lúc tình ca, động mạch chủ của bất cứ vùng đất hay thời đại nào, về lại ngôi vị muôn đời bất hoại của nó.

Nhưng Tình ca là gì? Nếu không phải là tấm gương phản chiếu mọi mẫu mã tình cảm của những người yêu, xa nhau, hoặc mất nhau? Cốt lõi của Tình ca theo tôi là tính lãng mạn. Thơ mộng. Tính lãng mạn, thơ mộng mà nhân loại có được, tôi nghĩ, nó như một đặc ân Thượng đế đã dành riêng cho con người.

Nói tới lãng mạn hay thơ mộng, là nói tới những cảnh giới hầu hết trừu tượng. Không cụ thể. Yếu tính này, chúng ta thấy rất rõ trong những tác phẩm văn chương lãng mạn và dĩ nhiên, trong ca từ của hầu hết tình ca. Hơn thế, tính trừu tượng của tình ca, còn thể hiện ngay từ nơi tựa đề nhiều ca khúc.

Thời Tiền chiến, dòng tân nhạc chúng ta đã có những tình khúc thiết tha, nhung, lụa như “Gửi gió cho mây ngàn bay”, “Gợi giấc mơ xưa”, “Chuyển bến”, “Mầu thời gian”…Sau đấy, chúng ta có “Nghìn trùng xa cách”, “Nửa hồn thương đau”, “Hoài cảm”, “Chiều tím”… Gần hơn chút nữa, chúng ta có “Ru ta ngậm ngùi”, “Một cõi đi về”, “Niệm khúc cuối”, “Trên ngọn tình sầu” vân vân…

Trong bối cảnh ấy, đầu thập niên 1970, qua chiếc cầu nối là những nhân vật tôi đã nhắc ở đầu bài: Tình khúc Lê Uyên Phương. Những tình khúc đến với giới trẻ, như một luồng gió mới.

Trên sân cỏ, trong khuôn viên đại học Văn Khoa, Saigòn, ngày ấy, những người trẻ tham dự buổi trình diễn đầu tiên của Lê Uyên và Phương, giống như những người tình cờ bước ra khỏi những căn hầm thiên kiến của mình. Họ thấy một bầu trời khác. Họ được uống một loại nước mát khác. Từ một dòng suối khác.

Sự kiện này khiến cho buổi trình diễn đầu tiên của cặp song ca Lê Uyên và Phương, chỉ một sớm một chiều, trở thành hiện tượng.

Rất nhiều ký giả đã tìm gặp, phỏng vấn cặp vợ chồng nghệ sĩ, như tình nhân. Rất nhiều phòng trà mời họ ký hợp đồng trình diễn, với những khoản thù lao họ không chờ đợi…

Nhưng bầu trời và, dòng suối làm thành hiện tượng bất ngờ đó là gì?

Thưa, trước nhất, tình ca của Lê Uyên Phương, là một tình ca ra khỏi “truyền thống tình ca” của mọi thời đại.

Cũng là tình ca, nhưng từ nhan đề mỗi ca khúc, cho tới giai điệu, ca từ, được nhạc sĩ Lê Uyên Phương xây dựng trên căn bản dung dị, dễ hiểu của chữ và, nghĩa.

Ngay tự nhan đề của một số ca khúc nổi tiếng của LUP, cũng cho thấy tính tả thực! Thay vì nói “Trên ngọn tình sầu” (cách nói của Từ Công Phụng), Lê Uyên Phương viết “Tình khúc cho em.” Thay vì viết “Bên đời hiu quạnh,” hay “Vết lăn trầm”… (cách nói của Trịnh Công Sơn,) thì LUP đặt tên cho ca khúc của mình là “Vũng lầy của chúng ta,” hoặc “Cho lần cuối”…

Với những tựa đề giản dị như vậy, người nghe, dù ở trình độ nào, cũng hiểu ngay. Không cần phải động não.

Bên cạnh đó, Lê Uyên Phương cũng cho một số ca khúc của ông những nhan đề tương đối bóng bẩy (trong một chừng mực nào đó.) Thí dụ “Lời gọi chân mây” hay, “Bài ca hạnh ngộ”…

Trung thành với chọn lựa của mình, rất nhiều ca từ của nhạc sĩ Lê Uyên Phương, cũng cho thấy dường ông chủ tâm đem vào phần ca từ của mình, một số ngôn ngữ đời thường. Những ngôn ngữ tả chân. Thậm chí ta có thể gọi đó là ngôn ngữ nói, vốn ít thấy trong ca từ của những nhạc sĩ cùng thời với ông.

Thí dụ trong tình khúc nổi tiếng “Vũng lầy của chúng ta” ông viết:

Yêu nhau giữa đám rong rêu hay dòng nước cuốn lêu bêu

“Đi qua những phố thênh thang, đi qua những trái tim khan

“Đi qua phố bước lang thang, đi qua với trái tim khan…”

“Theo em xuống phố trưa mai đang còn nhức mỏi đôi vai

“Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau”

(…)

“Ta sống trong vũng lầy

“Một ngày vùi dần, còn vùi sâu, còn vùi sâu

Trong ngao ngán không dứt hết cơn cơn ê chề…” (1)

Ở bài “Tình khúc cho em,” một ca khúc nổi tiếng khác, họ Lê viết:

Thương em khi yêu lần đầu

“Thương em lo âu tình sau

“Dù gương xưa không được lau” (2)

Hoặc ca từ của một số tình khúc quen thuộc khác nữa, như ở bài “Lời gọi chân mây,” ông viết:

“…Em ơi! Xin em, xin em nó yêu thương đậm đà

“Để rồi ngày mai cách xa

“Để rồi ngày mai…cách xa.” (3)

Hay trong ca khúc “Hãy ngồi xuống đây”:

“…Cho cơn buồn này rót nóng tung hoang

“Cho thiên đường này bốc cháy

“Trong cơn chia phôi chia phôi tràn trề…” (4)

Tôi nhớ, vào khoảng giữa thập niên 1980, trong một buổi trình diễn nhạc ở quán café LUP, ngã tư đường số 5th và đường Euclid, thuộc thành phố Santa Ana, Ca Li, khi được mời lên sân khấu, một nhạc sĩ lão thành, phát biểu rằng, nếu nét đặc thù trong nhạc Trịnh Công Sơn là “não tính” thì, đặc tính trong dòng nhạc Lê Uyên Phương là “dục tính.”

Cá nhân, tôi không thấy một ám ảnh tính dục nào trong cõi giới âm nhạc của tác giả này.

Qua hầu hết những ca khúc họ Lê đã viết, tôi lại thấy, cõi giới tân nhạc của ông là một loại “Nhật ký tình yêu”, viết bằng âm nhạc của một thị dân:

Theo em xuống phố trưa nay đang còn chất ngất cơn say

“Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau…” (Bđd)

Hay:

Hãy ngồi xuống đây

“Như loài cỏ tranh chen nhau từng hàng

“Xoắn xít bên nhau vui chơi cuộc đời có dáng hôm nay…” (Bđd)

 

Hoặc:

Trên phố khuya âm thầm trong gió đông

“Trên phố khuya âm thầm như ngóng trông

“Mắt thơ ngây màu môi sẽ phai nhanh

“Tuổi yêu thương còn xanh…”

(Trích “Đêm chợ phiên mùa đông.” (5)

Hoặc nữa:

Ái ân ơi đừng phụ lòng ta

“Nhớ thương sâu xin gửi người xa

“Khóc nhau trong cuộc đời…

(Trích “Dạ khúc cho tình nhân”) (6)

Có chăng, người ta không thấy trong ca khúc của Lê Uyên Phương những ẩn dụ văn chương như tình ca của những tác giả khác. Người ta cũng không tìm thấy tính hào hùng, lạc quan của những người lính nơi trận tiền, hay những hạt lệ nhỏ xuống cho những chiến sĩ nằm lại nơi chiến địa, như ca từ của Trần Thiện Thanh.

Người ta cũng không tìm thấy những khắc khoải, băn khoăn về một đất nước bị nhận chìm trong chiến tranh, chia cắt, tàn bạo như trong nhạc của Trầm Tử Thiêng, qua những ca khúc “Kinh khổ” hay “Chuyện một chiếc cầu đã gẫy”.

Người ta càng không thể tìm thấy trong cõi giới âm nhạc Lê Uyên Phương, những câu hỏi mang tính triết lý sâu xa, quặn thắt ruột gan về thân phận, quyền làm người, như hầu hết các ca khúc của Trịnh Công Sơn…

Nhưng, người lại tìm thấy những buồn, vui đời thường của tuổi trẻ đô thị trong nhạc Lê Uyên Phương. Điều mà trước cũng như sau họ Lê, không một nhạc sĩ nào bước vào. Rọi lớn.

Tính chất “Nhật ký tình yêu” viết bằng âm nhạc của Lê Uyên Phương, do đấy, đã đáp ứng một phần nhu cầu thanh niên thành phố. Khi họ cần tìm một khoảnh khắc tạm nguôi quên những bế tắc, tuyệt vọng, bất mãn về một tương lai bất định. Họ muốn quên, để sống với hiện tại. Dù cho đó là một hiện tại bị rình rập, vây quanh bởi những bất trắc:

Giờ này còn gần nhau, gần thắm thiết trong mối sầu

“Gần bối rối biên giới từ lòng đau

“Giờ này còn cầm tay, cầm chắc mối duyên bẽ bàng

“Cầm chắc mắt môi ngỡ ngàng

“Cầm giá buốt thương đau, ngày mai ta không còn thấy nhau…”

(Trích “Cho lần cuối”) (7)

Hoặc:

Này anh ơi, suối reo sườn đồi

“Này chim ơi, reo mừng cuộc đời ghi tên

“Rồi như khi lớn lên

“Rồi như khi úa tàn

“hoa thơm vẫn chờ nắng vàng dâng hương…”

(Trích “Bài ca hạnh ngộ”) (8)

.

Ttrong sinh hoạt trình diễn của tân nhạc miền Nam, 20 năm, trước cặp vợ chồng nghệ sĩ Lê Uyên và Phương, chúng ta chỉ có đôi song ca Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết. Tương quan xã hội của họ, cũng là tương quan vợ chồng. Nhưng, khởi nghiệp, họ không hát sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết mà, ca khúc mang lại sự nổi tiếng cho họ là một tình khúc của cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. (Bài “Gạo trắng trăng thanh.” Cùng một số ca khúc khác.)

Không lâu, sau sự xuất hiện của cặp song ca Lê Uyên và Phương, giới yêu nhạc ở Saigòn được thưởng thức nghệ thuật trình diễn của cặp vợ chồng nhạc sĩ Từ Công Phụng - Từ Dung. Giống trường hợp Lê Uyên và Phương, cặp song ca này, chỉ trình bày những sáng tác của người chồng: nhạc sĩ Từ Công Phụng. Tiếc rằng, họ không được thành công lắm. Và, thời gian trên sân khấu của họ cũng không dài, lâu, vì biến cố 30 tháng 4-1975. Cũng chính biến cố này, đã đưa tới sự chia tay giữa hai người!

Tuy nhiên, tôi thấy cần phải nói ngay rằng, sự kiện một cặp vợ chồng nghệ sĩ không hát nhạc ai khác, ngoài sáng tác của người chồng (hay người vợ,) chỉ tạo được chú ý buổi đầu. Đường dài, nó không hề là yếu tố dẫn tới thành công.

Trường hợp Lê Uyên và Phương cũng vậy. Ngoài yếu tố vợ chồng, về từ Đà Lạt, thời đó, dư luận còn xôn xao tin đồn nhạc sĩ Lê Uyên Phương bị ung thư. Căn cứ vào sự kiện ông có một cái bướu khá lớn nơi ngón tay cái. Do đấy, không ai có thể biết ông sẽ sống thêm được bao lâu.

Nhưng, ngay cả dư luận có phần thuận lợi về phương diện tình cảm của đám đông, cũng không thể đem thành công đến cho cặp song ca này, nếu không có dòng nhạc mới, lạ của Lê Uyên Phương. Nhất là nghệ thuật trình diễn nồng nàn của Lê Uyên.

Nhìn lại thời điểm hơn bốn mươi năm trước, người ta thấy, đa số các nữ ca sĩ thường rất nghiêm trang hay, hết sức chừng mực khi trình bày một tình khúc. Không ai dám đem “lửa” lên sân khấu qua những biểu cảm của tay chân, cơ thể trong những tình ca, hầu hết chậm và buồn. (Trừ những ca khúc được viết sau này ở thể điệu New Wave)

Tính chất đam mê, cuồng nhiệt trên sân khấu của Lê Uyên đã thổi những ngọn lửa đắm đuối sang người bạn đời của mình. Nó cuốn Lê Uyên Phương nhập đồng theo dòng nhạc của chính ông. Từ tính cách đặc biệt vừa kể, trên sân khấu, Lê Uyên và Phương, đã có được với nhau một “hợp đồng tác chiến” mà, không một cặp ca sĩ nào, trước họ, có được. Nói cách khác, ngoài giọng “khào” bẩm sinh, Lê Uyên còn hát bằng cả con người cô nữa.

Tôi có cảm tưởng, khi bước lên sân khấu, đứng cạnh Lê Uyên Phương, Lê Uyên là một người khác. Cô không chỉ hát bằng chất giọng đi từ thanh quản. Cô cũng không chỉ hát bằng rung động đi ra từ nhịp đập rộn rã của trái tim. Mà, tiếng hát của cô, còn đi ra từ toàn thể cơ thể. Thậm chí, nó còn có thể đi ra từ những chân tóc, ngón tay, ngón chân… của cô nữa.

Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói. Nhưng với tôi, cách nói ấy cho thấy rõ hơn, ghi nhận sau đây:

- Tình ca Lê Uyên Phương + Tiếng hát Lê Uyên + Sự hiện của nhân thân Lê Uyên Phương, là ba yếu tố làm thành bất khả phân ly. Như thể giữa ba thành tố này, đã có một tương thích hữu cơ mà, theo cách nói của những người trẻ hôm nay là tính “chemistry” định mệnh, không thể giải thích.

- Theo tôi, chính tính chất chemistry / hữu cơ giữa ba thành tố kể trên, đã làm thành hiện tượng Lê Uyên và Phương, rực rỡ một thời, sinh hoạt trình diễn miền nam Việt Nam.

- Phải chăng vì thế, sau Lê Uyên và Phương, người ta thấy, cũng có những cặp song ca mà, tài năng, nghệ thuật diễn tả của họ, không còn là câu hỏi cho bất cứ người nào - - Nhưng khi họ chọn tình khúc Lê Uyên Phương để trình diễn thì, dù họ là ai, chúng vẫn hiện ra như một tác phẩm không trọn vẹn.

Tôi muốn nói, tình ca Lê Uyên Phương sẽ còn ở mãi với chúng ta. Như một kỷ niệm quý. Nhưng khi nhạc sĩ Lê Uyên Phương không còn nữa (9) thì, một phần thành tố làm nên rạng ngời những tình khúc của ông, cũng đã theo ông về cõi khác.

 (Sept. 2011.)

________________

Chú thích:

(1,) (2,) (3,) (4,) (5,) (6,) (7,) (8): Theo dactrung.com

(9) Nhạc sĩ Lê Uyên Phương tên thật Lê Văn Lộc. Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 tại Đà Lạt, mất ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại miền nam California.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Tám 2015(Xem: 9248)
29 Tháng Bảy 2015(Xem: 8634)
14 Tháng Sáu 2015(Xem: 6013)
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17095)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12304)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19034)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9206)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8380)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 659)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 1036)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1212)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22504)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14042)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19216)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7930)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8849)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8521)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11099)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30752)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20839)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25548)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22934)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21770)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19825)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18076)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19285)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16946)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16134)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24538)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31988)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34952)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,