Tác giả “Tiếng thời gian”, Lâm Tuyền, bằng chứng khác của định mệnh nghiệt ngã
Tôi vẫn nghĩ, người lạc quan, rộng lượng cách mấy, cũng không thể không nhận ra, trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu có những tên tuổi được biết đến, nhắc nhở nhiều, không hề vì tài năng thật thì, chúng ta cũng có không ít, những tài hoa lớn, bị định mệnh hàm hồ, đố kỵ đẩy vào quên lãng.
Tính đố kỵ hay bản chất nghiệt ngã của định mệnh trước những tài hoa ngoại khổ, dường không bỏ sót một vùng đất, một thời đại nào.
Lịch sử văn học, nghệ thuật thế giới ghi nhận, có những tài hoa xuất chúng, khi sống bị lãng quên, bằn bặt. Nhưng cuối cùng, trên nấm mồ của họ, khi cỏ đã xanh, những vồng hoa rực rỡ nhất, đã được nhân gian biết ơn. Ngợi ca. Tưởng tiếc. Dẫu muộn màng.
Nói vậy, không có nghĩa tài năng ngoại khổ nào, cuối cùng, khi đã nằm xuống, cũng được định mệnh tỵ hiềm, ganh ghét hồi tâm, buông tha! Thực tế, vẫn có những tài năng lớn, cuối cùng, khi nấm mồ được lấp thì, nó lại như một tầng lãng quên khác, phủ thêm lãng quên lên di hài người quá cố!
Cũng thế, đành hanh định mệnh kia, không quên Việt Nam.
Tôi muốn nói giai đoạn văn học, nghệ thuật miền nam, 20 năm, dù ngắn ngủi, nhưng chẳng vì thế mà được định mệnh miễn trừ.
Một trong những tài hoa rất mực của văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm, theo tôi, là cố nhạc sĩ Lâm Tuyền.
Ông là tác giả của những ca khúc từng được những người cùng giới coi như kinh điển. Đó là những tình khúc còn lưu truyền tới hôm nay, với nhịp đập của trái tim rực rỡ tài hoa trong tác phẩm, không vì thời gian mà giảm sút phần rưng rưng. Thổn thức.
Có thể chúng ta không biết tên những ca khúc như “Tiếng thời gian,” “Hình ảnh một buổi chiều” “Tơ Sầu, hay “Khúc nhạc ly hương”, “Nhắn người viễn xứ” hay “Lặng lẽ”, “Trở về dĩ vãng”… Nhưng tình cờ, đâu đó, chí ít cũng một lần, chúng ta đã nghe:
“Đàn chim tung cánh xa khuất mờ
Chiều thu lưu luyến màu thương nhớ
Nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng
Buồn biết bao giờ cho hết nguôi…”
(Theo Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở).
Đó là đoạn mở đầu của ca khúc “Hình ảnh một buổi chiều”.
Vẫn với ca khúc “Hình ảnh một buổi chiều” nhạc Lâm Tuyền, lời Dạ Chung (bút hiệu một thời của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc”, những người yêu nhạc ở thập niên (19), (19)60, nhiều người chưa (nếu không muốn nó là sẽ) khó quên câu:
“Anh không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả! Anh chỉ giữ hình ảnh một buổi chiều, khi nắng vàng nhuộm thắm mái tóc em” in đậm đầu ca khúc. (1)
Hoặc:
“Chiều chiều ngùi trông xa khơi mờ sóng
Từng đàn chim bay trong hoàng hôn
Chơi vơi hồn ai tới chốn xa xôi
Khuất bóng Kim-Ô, chiều tàn lâm li
Mây trời bao la!
Lòng buồn sầu ước, như lũ chim quyết tung cánh trời mây
Bao nhiêu giông tố hề chi
Bao nhiêu mưa gió biệt ly
Thề quyết ra đi từ đây…”
Đó là đoạn đầu của “Khúc nhạc ly hương”. (2)
Hoặc nữa:
“Với ánh tơ sầu, sắc thắm muôn màu
Làm cho tim ta tê tái thương đau
Với ánh tơ sầu, ném xuống nhân loại
Làm cho bao giống người sầu đau.
Người nhạc sĩ kia ơi
Buồn thương, tương tư chờ ai?
Đời người tươi thắm, sáng như ngàn sao
Nguồn nhạc tinh túy, xướng trong hồn người
Không bao giờ phai
Là suối rừng mai…” (3)
Đó là “Tơ sầu”. Tình khúc được ghi nhận là đầu tay của tài hoa âm nhạc Lâm Tuyền, xuất thân từ cố đô Huế.
Ca sĩ Quỳnh Giao (cũng là giáo sư dương cầm), trong bài viết nhan đề “Lâm Tuyền và giấc mơ sông hồ”, có đoạn:
“… Toàn thể tác phẩm của Lâm Tuyền quả là ít, nhưng rất nghệ thuật và độc đáo. Vào thập niên 50, tân nhạc Việt Nam mới tiến qua ngưỡng cửa ‘phôi thai’, mà với nhạc thuật vững vàng, câu cú có hệ thống rành mạch như Lâm Tuyền thì thật ra rất hiếm. Nghe nhạc mình nhận ra trình độ của người sáng tác. Có học nhạc pháp, hòa âm mới viết được như thế.
Các nhạc trưởng có tài năng như Vũ Thành, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi đều công nhận giá trị nhạc thuật Lâm Tuyền và thích thú khi viết hòa âm cho các tác phẩm của ông…” (4)
Phải chăng, chính vì tài hoa Lâm Tuyền được những tên tuổi lừng lẫy trong giới, cùng thời công nhận mà ông đã bị định mệnh vùi dập, tàn nhẫn như ghi nhận sau đây của Trần Áng Sơn, trong tác phẩm nhan đề “Những trang khép mở”:
“Sau 1975, tôi gặp lại nhạc sĩ Lâm Tuyền mấy lần - ông già đi là lẽ dĩ nhiên - nhưng nỗi buồn ẩn hiện trong những nét khắc khổ trên gương mặt, khiến làm tôi nao lòng ! Đã từng biết ông, từng được ông truyền những kỹ thuật solo, làm sao tôi có thể thản nhiên!!!
“Đã bước sang năm thứ 2 của thế kỷ XXI, Lâm Tuyền không còn nữa, ông mất cách đây mấy năm, ra đi âm thầm, đúng theo cách mà người ta đối xử với ông…” (Nhà XB Trẻ, Saigon. Tập 2. Tr. 141-146) (5)
Tôi cố tình in đậm cụm từ “…đúng theo cách mà người ta đối xử với ông” của tác giả họ Trần!
Bất hạnh nào gắn liền với tác giả “Hình ảnh một buổi chiều”?
Trong ghi nhận của tôi, dường như bất cứ một văn nghệ sĩ nào của chúng ta, ở đời riêng của họ, đều có những bất hạnh mà, vì nhiều lý do, giới thưởng ngoạn có thể không hề hay biết!
Ngay với những tác giả được coi là có một đời sống tốt đẹp, êm ấm nhất trong đời thường, nhưng khi đọc nhật ký của họ, hoặc qua những tiết lộ của những người thân (khi họ đã qua đời), chúng ta mới biết, sự thực không hẳn như vậy.
Nhạc sĩ Lâm Tuyền (Hình do ông Hồ Đình Vũ gửi)
Thực tế này cũng dễ hiểu, vì một văn nghệ sĩ dù tài hoa tới đâu, rốt ráo, cũng vẫn là một con người bình thường, như mọi người - - Hiểu theo nghĩa họ cũng bị chi phối bởi những nghịch cảnh, bệnh tật, những trớ trêu của định mệnh…Nên, trong thâm sâu, có thể họ có những uẩn khúc, những mất mát hoặc những bi kịch, đôi khi khốc liệt hơn cả chúng ta nữa!
Định luật ấy, đương nhiên không buông tha nhạc sĩ Lâm Tuyền, tác giả ca khúc “Hình ảnh một buổi chiều.”
Khác nhau chăng, những bất hạnh đã xẩy đến với ông một cách tàn nhẫn, cụ thể!!! Tựa ông được sinh ra để trở thành trò chơi tai ác trong đôi tay hận thù của nghịch cảnh.
Theo tác giả Trần Áng Sơn, trong một bài viết chúng tôi đã trích dẫn, cho biết, đại ý:
Nhạc sĩ Lâm Tuyền và bà chị họ, ca sĩ Mộc Lan, có một tình bạn đặc biệt… “hơn cả tình bạn; nhưng không vượt qua giới hạn cho phép”(5), nhạc sĩ Lâm Tuyền đẹp trai, khuôn mặt có góc cạnh, tiếng nói rổn rảng, trực tính. Ông vốn nóng tính, nhưng bình thường lại rất hiền hòa, dễ thương. Vậy mà cay nghiệt thay, vẫn theo họ Trần thì:
“… Không chỉ phụ nữ lâm vào cảnh tài sắc đố kỵ, căn bệnh đậu mùa quái ác đã hủy hoại gương mặt điển trai của ông, để lại trên gương mặt vốn cuốn hút ấy những nét lồi lõm loang lổ. Vào thời gian này, chị tôi hát bài ‘Tơ Sầu’ của Lâm Tuyền, nghe như nỗi buồn giăng mênh mênh mang mang.” (6)
Tuy Trần Áng Sơn chỉ nhắc tới “Tơ Sầu,” một tình khúc Lâm Tuyền viết sau khi bị bệnh đậu mùa, nhưng trong tạp ghi “Lâm Tuyền và giấc mơ sông hồ” của ca sĩ, giáo sư dương cầm Quỳnh Giao, đã kể thêm rằng:
“… Khi Lâm Tuyền viết ‘Trở Về Dĩ Vãng’ thì người viết (Quỳnh Giao, thuở đó) còn bé lắm, nhưng được cô Mộc Lan kể lại cho biết ông viết để tặng cho cô. Có lẽ vì mình bé nên cô mới kể, chứ không kể cho người lớn! Câu hát ‘Anh thường khóc khi chiều xuống, lòng nhớ nhung triền miên’ ám chỉ cô, vì tên gọi chơi (nick name) của cô là Nhung, dù tên thật là Nga. Người viết suy đoán là ông dựa vào ý thơ của ‘Người Em Sầu Mộng’của Lưu Trọng Lư, vì những câu như ‘tình em như tuyết giăng đầu núi, tình anh như sóng đưa ngoài khơi’...
“Ca khúc trữ tình này còn ai hát hay hơn chính Mộc Lan!” (7)
Vẫn theo tác giả Trần Áng Sơn thì, sau khi bị tàn phá diện mạo, Lâm Tuyền người đã để cho đời khá nhiều tình khúc bất tử, dường định mệnh vẫn chưa muốn lơi tay! Khi người nhạc sĩ có những ca khúc “lấp lánh như kim cương, một thứ kim cương đen, rất khó chấp nhận” (chữ của Trần Áng Sơn), là Lâm Tuyền, di chuyển vào Saigon, mở lớp dạy độc tấu guitar đủ trình độ, chấp nhận chơi đàn cho các vũ trường, đại nhạc hội, tên tuổi ông đã nổi lên như “một guitarist số 1” Nhưng:
“… Tuy đã phải chấp nhận việc đem bán nghệ thuật ở nơi công cộng, nhưng cuộc sống của Lâm Tuyền vẫn không dễ chịu hơn, ông thường gặp chị tôi, mượn vốn và trả rất đúng hẹn. Thương bạn cũ có tài, không gặp thời; nên chị tôi không bao giờ từ chối. Và để khỏi nhận lại tiền cho mượn, chị tôi gửi tôi cho Lâm Tuyền đào tạo. Lớp dạy đàn của Lâm Tuyền tổ chức như 1 lớp học của 1 ông đồ, cũ kèm mới, lớn kèm bé. Tôi là kẻ thích chơi đàn, nhưng không có ý định theo đuổi nghiệp cầm ca, nên chỉ theo học mấy tháng; thuộc được dăm, ba bài solo, rồi nghỉ. Nghệ thuật độc tấu guitar của Lâm Tuyền vào thời gian này đã đạt tới trình độ độc tôn. Những ca khúc do ông độc tấu được dùng làm làm đài hiệu, phát trên Đài phát thanh Saigon. Đặc biệt là bài La Cumpasita do ông tự biên soạn hòa âm, dành riêng cho dân chơi guitar độc tấu. Người ta như quên mất 1 nhạc sĩ Lâm Tuyền sáng tác ca khúc, chỉ còn guitarist Lâm Tuyền, với cây guitar vật bất ly thân.
“ Thế rồi, rất đột ngột, tôi nhận được tin Lâm Tuyền bị bắt, vì tội vượt biên sang Singapore để thực hiện giấc mộng chinh phục người yêu nhạc nước ngoài bằng tiếng đàn của mình.
“ Sau biến cố này, người ta không còn nhắc tới Lâm Tuyền nữa. Nhạc của ông trước đây, rất ít ca sĩ hát, bây giờ lại càng lạnh ngắt…” (8)
Và, qua họ Trần, chúng ta đã biết, cuối cùng, người nhạc sĩ tài hoa rất mực Lâm Tuyền kia, đã “…ra đi âm thầm, đúng theo cách mà người ta đối xử với ông.”
Không biết có phải thế hệ nhạc sĩ trước, cũng như sau điểm mốc 1954, vốn sống trong hoàn cảnh đất nước loạn lạc, chiến tranh triền miên, nên vấn đề du lịch đó đây của họ (cũng như những thành phần xã hội khác), đầy khó khăn, ngặt nghèo? Vì thế, khá nhiều nhạc sĩ đã có những ca khúc hiển lộng mơ ước dong duổi, phiêu lưu năm châu bốn biển, như một cách thế giải tỏa ức chế?
Thí dụ, Phạm Duy có hơn một sáng tác cho thấy giấc mộng…phiêu lưu cùng trời, cuối đất của ông. Một ca khúc nổi tiếng của họ Phạm, trong thể tài này, bài “Viễn du”:
“Ra khơi,
Biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông
Biết đời viển vông, biết ta hãi hùng
Ra khơi,
Thấy lòng phơi phới, thấy tình thế giới
Thấy mộng ngày mai, thấy niềm tin mới
“Chơi vơi, con thuyền trên sóng không nguôi
Bão bùng xô tới xô lui, vững tay chèo lái
Xa xôi,
Hỡi người trong viễn phương ơi
Hẹn hò nhau viễn du thôi, lên đường mãi mãi…” (9)
Hay Trọng Khương với “Bánh xe lãng tử”:
“…Ta luyến lưu một kiếp giang hồ
Dù rằng cuộc sống vô bờ
Tim nồng giòng máu vô tư
“A ha ha!
suối in hình chiếc xe tàng
Đêm nao đập vỡ cây đàn
Giận đời nào ai mắt xanh
“Vó câu bấp bênh
Trên đường gian nan
Chiếc xe lắc lư ru hồn nghệ sĩ tới nơi xa ngàn…” (10)
Cố nhạc sĩ Lâm Tuyền, không khác!
Trong số những sáng tác ông để lại cho đời, lãng mạn hay khát khao “chân trời, góc biển” của ông, cũng bàng bạc trong nhiều ca khúc.
Tuy nhiên, nếu các nhạc sĩ cùng thời với ông, khi ném tâm hồn họ vào thể tài thuộc loại…”ra khơi” với tất cả hưng phấn, náo nức… không bi lụy thì, nhạc sĩ Lâm Tuyền lại ở mặt bên kia của những hăm hở dậy sóng ấy.
Căn cứ vào ca từ của một trong những sáng tác nổi tiếng của tài hoa tân nhạc kém may mắn này, là ca khúc “Hình ảnh một buổi chiều,” ở đoạn điệp khúc, tác giả cho thấy, với ông, cuộc đời không có ý nghĩa nào khác hơn hoặc, lớn hơn khao khát phiêu lưu chân trời, góc biển:
“… Bao năm qua ta sống giang hồ xa quê nhà.
Nơi xa xôi muôn ý phiêu lưu dâng cho đời.
Dù bao nhiêu cay đắng
Đến làm nát lòng ta
Tan nát rồi không đoái hoài.
Dù bao nhiêu sóng gió
Quyết đem chí tung hoành.
Sống quên hết bao hận bên lòng…”
Vậy mà, ngay sau đấy, khi chuyển qua đoạn kết của ca khúc, ở hai phân khúc cuối, ông viết:
“Nhìn ta say đắm man mác sầu
Lòng ta tha thiết tình thương nhớ
E ấp ngàn câu trong mắt buồn
Người biết ta sầu muôn ý nao.
“Miền xa mây núi xanh ngát màu
Hồn bơ vơ lúc hoàng hôn xuống
Khi nắng vàng phai trên núi đồi
Là lúc ta buồn bao kiếp nguôi!” (11)
Hơn thế, dù… ra khơi hay, cất cánh bay tới những khoảng trời cao, rộng, luôn luôn cùng với ông, bên cạnh ông, là hình ảnh một cuộc tình quay lưng. Sự ly tan với một người nữ:
“… Biệt ly, anh theo cánh gió chơi vơi
Phiêu du khắp bốn phương trời
Xa xôi tiếc nhớ khôn nguôi
Men say lấp kín môi cười
Biệt ly - sầu bi.”
(Lâm Tuyền, trích “Trở về dĩ vãng”) (12)
Hoặc nữa:
“… Dừng lại đây cho ta còn thấy,
màu khăn tay đưa nhau ngày ấy
người ra đi hẹn với tang bồng
một sớm nắng mai hương nồng
về chung say đắp non sông
“Trăng xưa xa xôi lộng gió
màu xanh tươi quê hương còn đó
người quên ta còn nhớ chăng là
hình bóng cố nhân quê nhà
còn nhớ thương người chốn xa
“Người xa xăm ta buồn nhớ ...”
(Lâm Tuyền, trích “Nhắn người viễn xứ”) (13)
Với tôi, khao khát “năm châu bốn biển” của Lâm Tuyền chỉ là mặt nổi của tảng băng! Ở đáy sâu tâm cảm ông, có dễ là những toan tính, mơ ước xa lánh nhân thế! Xa lánh đời thường!
Ông mượn hình ảnh sông nước, giang hồ để giãi bày tâm tư riêng, (đồng thời nhắn gửi…ai đó, qua tiếng thở dài cố nén, nhưng vẫn gập ghềnh, thiết tha nỗi nhớ…)
Ở điểm này, theo tôi, ông đã chân thật biết bao, với chính ông! Ông chân thật tới mức chẳng những không dấu giếm mà, còn tự thú: Nỗi buồn của ông, rồi đây, không biết sẽ trải qua bao nhiêu kiếp, mới buông tha ông?
Làm như ông được sinh ra, không phải để đối mặt nỗi buồn! Mà, ông chính là “con tin” của những nỗi buồn vực sâu đó!
Tôi muốn gọi bộc bạch của ông, qua ca từ, là những “tự thán!” Những giây phút đối thoại với bóng! Soi rọi chính mình:
“… Khi nắng vàng phai trên núi đồi
Là lúc ta buồn bao kiếp nguôi(?)”
(“Hình ảnh một buổi chiều.” (14)
Hoặc:
“Cố nắn tơ đồng,
Khóc oán phong trần
Hồn ta mưa gió lạnh lùng đau!”
(“Tơ sầu”) (15)
Sự ngay thẳng, chân thật với con người mình, thể hiện qua ca từ của nhiều ca khúc của Lâm Tuyền, trong ghi nhận của tôi, là một thái độ sống rất đáng trân trọng. Như chúng ta trân trọng tài hoa, trí tuệ của ông vậy.
Du Tử Lê
(Garden Grovae May 15-2013)
________Chú thích:
(1) , (2), (3), (4): Nđd.
(5), (6): Ngđd.
(7): Câu thơ “Người em sầu mộng” mà ca sĩ Quỳnh Giao nhắc trong bài tạp ghi của cô, nằm trong bài thơ nhan đề “Một mùa đông” của Lưu Trọng Lư. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Hà Nội trong cuốn “Lưu Trọng Lư – Tiếng Thu,” in lại vào tháng 11 năm 1992, theo đúng bản in lần đầu thì, bài thơ “Một mùa đông” của Lưu Trọng Lư có ba phần khác nhau. Đánh số từ I tới IV. Phần thứ nhất, tác giả viết theo thể Ngũ ngôn, gồm 6 phân khúc. Phần thứ nhì, gồm 4 phân khúc, viết theo thể Lục ngôn, Thất ngôn rồi, trở lại Ngũ ngôn ở 2 phân đoạn cuối. Phần thứ ba, viết theo thể Thất ngôn, gồm 4 phân khúc. Và, phần thứ tư, có 6 câu, viết theo thể Thất ngôn.
Nếu đối chiếu từng ca từ trong ca khúc “Trở về dĩ vãng” của Lâm Tuyền với bài thơ “Một mùa đông” của Lưu Trọng Lư, thì những câu sau đây trong ca khúc “Trở về dĩ vãng” có quá nửa từ là thơ Lưu Trọng Lư như: “Biệt ly tình đôi ta vời vợi” - - Đi ra câu thơ “tình đôi ta vời vợi” (ở phân khúc 1, phần thứ I). Hoặc ca từ “về tràn trên gối chăn mờ phai” - - Đi ra từ hai câu thơ “Cho tình tràn trước ngõ / Cho mộng tràn gối chăn”(ở phân đoạn 4, thuộc phần thứ II của bài thơ). Riêng hai câu “Người em sầu mộng của muôn đời” và “Tình em như tuyết giăng đầu núi” là thơ của Lưu Trọng Lư, từng chữ.
Người thứ hai phổ nhạc “Một mùa đông” (với tựa mới “Mắt buồn”) là cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Trong phần ghi lại nguyên bản thơ, tới bài “Một mùa đông,” họ Phạm cũng ghi đủ 4 phần của bài thơ, tuy không đánh số… (Xem thêm “Mộng dưới Hoa - 20 bài thơ Phổ nhạc” của Phạm Đình Chương. Vincent & Company xuất bản tại California, 1991.)
(8) Trần Áng Sơn, ngđd.
(9), 10), (11), (12), (13), (14), (15): Ng.đd.