Sự nghiệp của một thi nhân có thể xác định ngay từ tác phẩm thứ nhất và văn tài cũng không tùy thuộc vào kinh nghiệm và thời gian. Du Tử Lê xuất hiện trên thi đàn hiện đại lần đầu tiên với tác phẩm thứ nhất “Thơ Du Tử Lê” - tác phẩm này đã quan định ngay cho Du Tử Lê một chỗ đứng trong văn học, tuy không lớn rộng nhưng ít nhất “Thơ Du Tử Lê” cũng đã trở thành một vang vọng đáng chú ý vì nó mang một thực chất Du Tử Lê - một thực chất của rạn vỡ và thức tỉnh trong chơi vơi của một tâm thức tù hãm trong mơ.
Cái đẹp của “Thơ Du Tử Lê” như một bông hoa hàm tiếu, không mạnh như bão táp cũng không khắc khoải đến độ tan hoang và cái Đẹp kia như một cô gái vừa dậy thì chưa được trọn một lần dang dở thì bỗng dưng bị cuộc đời tước đoạt tuổi thanh xuân - và chỉ còn lại một vùng sa lầy giữa những mơ ước hão huyền với một niềm tin vừa bừng bốc đã tan - một đam mê chưa trọn:
trên giòng đau thương tôi là bèo nổi
trên giòng quê hương tôi là củi khô
tôi là củi khô những ngày thơ ấu
khói ám linh hồn lửa bốc tâm tư
trên con đường xưa tôi là lá rụng
trên giòng sông này phù sa nuôi tôi
phù sa nuôi tôi đi vào chiến cuộc
đất Việt da vàng máu đỏ xương rơi
trong khối tình em tôi là bướm ngủ
trong nỗi u buồn thế hệ thanh niên
tôi muốn rủ em nhìn về quá khứ
quá khứ tủi hờn nghìn năm điêu linh
nửa giòng nước suôi nửa giòng nước ngược
chợt khóc chợt buồn chợt nhớ chợt thương
tôi là lá khô những ngày khói lửa
những ngày tương tàn tình em không hương
(Trích Linh Hồn Việt Nam)
Thơ Du Tử Lê hàm dưỡng những hệ lụy của tuổi trẻ hôm nay, không phải là một chuỗi than dài. Tự bản chất thơ Du Tử Lê vốn trữ tình - ông đã nói lên một cách đầy đủ và thật lãng mạn cái nhậy cảm của hồn thơ ông bằng những hình ảnh thật đơn sơ và một thứ ngôn từ chất chứa. “Thơ Du Tử Lê” thành thực như tiếng nói của tuổi trẻ - tuy có đôi chút “làm dáng” và “ước lệ” mà trước sau vẫn chỉ là tiếng nói thành thực - tiếng nói của tuổi trẻ Việt Nam hai mươi lăm năm trong tan hoang vỡ vụn và còn tiếp diễn những kinh hoàng. Chúng tôi nâng niu “Thơ Du Tử Lê” như nâng niu chính tuổi trẻ của mình từng bị tước đoạt và như tình yêu của mình đang dâng lên trong khoảng sương mờ.
Một ngàn chín trăm sáu mươi Du Tử Lê xuất bản thi phẩm thứ hai “Tình Khúc Tháng Mười Một” -qua hình thức trang trọng và trưởng giả của ấn phẩm ta có thể mơ hồ hình dung thấy một Du Tử Lê vừa trau chuốt, vừa nghiêm chỉnh để tạo một tư thế “lớn” cho lần ra mắt thứ hai. Và thật vậy, cái tư thế lớn kia đã thể hiện rõ rệt “lời vọng hịch truyền” bài mở tay cho thi phẩm của chính nhà thơ.
“xướng ngôn: ta là người mù giữa muôn trùng ánh sáng - ta ban phát thương yêu cho những ai đau khổ cho những ai một đời héo khô - ta là kẻ có quyền năng vô biên giữa một vùng riêng cõi lẻ - ta cất tiếng gọi muôn loài quy tụ dưới chân ta và chìa ra những bàn tay mười bốn đốt xương khô.
“lời vọng: hãy chìa ra những bàn tay mười bốn đốt xương khô.
“xướng ngôn: ta đã nổi lửa hôm nay để đốt cháy ngày qua tương lai và những gì bội phản tình người - ta sẽ đập tan định kiến, thành trì của những giáo điều ước lệ, những vòng giây trói hãm chúng ta vào ngục tù hữu hạn tương giao - ôi xã hội với những ngả đường hoa kẽm vấy máu giăng ngang - ta đã là ta từ phút này, mặt trời đứng đó và sao cùng đứng đó, những vì sao cùng đứng đó và thu vén nỗi buồn mình thành tượng đá trong tim”...
(trích Lời Vọng Hịch Truyền).
“Lời Vọng Hịch Truyền” là một tuyên ngôn cho một tâm thức mới, một lời giới thiệu cho sự “chín mùi” của bản chất Du Tử Lê. Cái bản chất vốn nhậy cảm và trữ tình từ một “Thơ Du Tử Lê” đến “Tình Khúc Tháng Mười Một” - nó bắt đầu tỏa rộng và sâu.
nghìn đêm lửa đỏ ghế ngồi
em trong trí tưởng tôi ngoài chuyến đi
yêu em buồn đã tìm về
một thân nhão nhẹt hồn trì đáy sâu
cho em trăm giọt lệ sầu
xác tôi giòng táp chân cầu nhân gian
hãy nghe lời hát của chàng
hãy cao tiếng gọi phượng hoàng thiên thâu
yêu em đêm đỏ lửa cầu
sáng ra nước mắt chuyến tầu xe tôi.
(Hạnh Phúc Cho Huyền Châu).
Du Tử Lê bắt đầu chìm đắm hơn, ngân dài và xa xăm. Một nhà thơ vốn có thực chất như Du Tử Lê thì lẽ tự nhiên thơ Du Tử Lê phải là một thực chất sáng tạo nghĩa là những tình tự đi lên để đến đích điểm của nghệ thuật. Du Tử Lê không có những ngôn từ mới và đặc biệt. Nhưng nguồn sáng tạo của ông luôn luôn đổi thay và sự nhậy cảm của thơ ông thật chậm chờn nên thi điệu nhờ thế mà nghe như tiếng hát - tiếng hát thực sự dâng lên từ tâm thức. Ta hãy lắng nghe nỗi buồn này - như giọt mưa trên mái lá - như tiếng ru của người cô phụ - như nỗi buồn Việt Nam - như nỗi buồn rất “trữ tình” của một Du Tử Lê bén nhậy và xa xăm:
Anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
đạn nổ đều nhưng đạn nổ rất xa
dù cho mai kia đạn nổ gần
thì cũng thế mà thôi có gì đáng lạ
không lạ chứ! phải rồi từ khi chúng mình mở mắt
bom đã rơi mừng đạn đã reo vui
ngày đã đau thương đêm đã ngậm ngùi
máu vẫn chảy và thây người vẫn đổ
- anh đã bảo ngủ đi cô nàng bé nhỏ
quê hương này em đã trót đầu thai
mảnh đất này hoa sớm nở sớm phai
tình sớm đẹp để rồi tình sớm lỡ
hàng rào kẽm canh chừng bọn anh những thằng toan bỏ cuộc
tiếng kèn đồng thúc dục bọn anh điên
hỏa châu soi đường dẫn lối đêm đêm
từng con mắt kinh hoàng, từng bàn chân lận
từng ngón tay ôm cò súng lăm le
- anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
có gì đâu đêm đã thế từ lâu
có gì đâu đời đã thế từ lâu.
Điệu thơ Du Tử Lê có một cái lạ rất mơn man và quyến rũ. Tiếng thơ như lời ca. Nó bồng bềnh trôi nổi. Mà cách hợp vần, hợp điệu trong thơ ông như một bộc phát tình cờ. Nó mang theo cái cao điệu của một tâm hồn đầy nhớ, đầy thương.
Đọc thơ ông, người ta có thể thấy ngay ông làm thơ như người nói chuyện nghĩa là tự nhiên không gò bó. Nhưng tự mỗi ngôn từ, mỗi mạch thơ càng đọc, thì, người ta càng thấy có sự hiện diện của một nghệ thuật mới. Nói là mới vì ông tự biết sử dụng cách thế làm thơ cho mình có một giọng riêng - nó không thể lẩn lộn với bất cứ ai.
Còn một đặc điểm khác là trong thơ Du Tử Lê có ẩn dấu một bản chất thật Việt Nam. Ông có thế giới riêng của ngôn ngữ cũng chỉ như sự phát hiện một cách tự nhiên từ bản chất Việt Nam của ông. Cũng vì cái bản chất sơ khai từ lòng Mẹ kia cho nên chất “thi sĩ” Du Tử Lê chỉ phát hiện một cách rõ rệt và rất thơ qua những tình khúc êm đềm và dịu nhẹ. Mà đặc biệt trong cái êm đềm và dịu nhẹ kia, Du Tử Lê vẫn chất chứa một tình tự phản kháng với chính thân thế qua tình yêu và nỗi cô đơn cứ một ngày thêm lớn rộng. Thơ Du Tử Lê còn đang vươn lên chiều cao. Ông đã có kích thước vừa đủ của chiều rộng và chiều sâu để tự cắm cho mình một mức giá trị có thể tiêu biểu cho một khuynh hướng mới trong thi ca hôm nay: Một thứ phản kháng trên tình tự lãng mạn - Một lời thú tội trên cung bậc trữ tình, trên một hệ số Anh Nhìn Về Anh Qua Em.
tôi chả còn gì để nhớ, tôi chả còn gì để quên
đêm như những con rắn hoa trườn mãi
ngày như những con ngựa hoang chạy dài
tôi còn gì để nhớ, tôi còn gì để quên
em như điếu thuốc lụi tàn
sợi khói tan và không hề lưu dấu
nhìn vào khoảng trống đời anh
lềnh bềnh những vết dầu loang nhơ nhuốc
anh một mình cứ hôn tay anh - năm cành gai nhọn héo hon
làm gì để nhớ, làm gì được để quên
buổi chiều sừng xững mọc trong quán
ly cà phê tối tăm rồi đôi mắt xanh đen
cô cashier lai Tây
người bồi đồng phục trắng mềm mại như con bạch nga
tất cả âm thầm chảy vào ly cà phê anh uống
chiều ngủ rồi! Chiều ngủ rồi trong anh
chiều đi rồi! Chiều đi rồi trong anh
thế nào rồi cũng nhớ - thế nào rồi cũng quên.
(Vết Sầu Trên Nhánh Linh Hồn)
Thơ Du Tử Lê có một giọng đặc biệt, vừa tự nhiên, vừa sôi nổi và hồn hậu. Tuy ông bị ám ảnh bởi một thứ thi điệu nhịp nhàng và theo thứ thanh âm trầm bổng của nhạc nhưng nguồn rung cảm của Du Tử Lê vốn dĩ xúc tích và sống động nên chất thơ nhờ thế mà phát hiện một cách tự nhiên như sự một phản ứng tự nhiên của cân não và tâm hồn.
Thơ Du Tử Lê - nhìn một cách toàn bộ - đẹp như tuổi thơ, bi thảm như một chuyện tình Chức Nữ Ngưu Lang và hấp dẫn người đọc theo cái tươi mát của một trái nho vừa chín.
hãy nghe tôi đi
hỡi người tình nhỏ
hãy nghe tôi đi
lời chiêu ca này
dỗ hồn về đậu
trên hai nhánh vai
một người vô tội
đưa lòng về gội
mưa nắng sông tôi
một giòng đắm đuối
trên sông tình dài
phải thế không em
chiều đã tha chiều
đi tìm bóng khuất
đêm đã nhủ đêm
thầm chăn gối ấm
hãy nghe tôi đi
hồn đà chín đỏ
thà tình yêu đó
như giọt mưa ngang
thà đời sống đó
như nỗi muộn màng
trong ngày tháng lụn
hãy nghe tôi đi
dỗ hồn về đậu
trên hai nhánh vai
một giòng mắt khép
trên lưng tình dài
(Trích Trên Lưng Tình Dài).
Giòng thơ trôi theo một nhịp mang cái lênh đênh và phiêu bồng như tiếng gió và thông reo. Thi điệu của nó như van lơn trong nỗi rời rạc của tâm thể. Thơ Du Tử Lê có một thi điệu đặc biệt tuy không lạ nhưng tới. Nó chất chứa đủ một hơi thơ giàu và có dồn nén một cách thật ấp ủ trong điệu của thơ. Giữa những người làm thơ hôm nay thì Du Tử Lê là một chân dung hồn hậu. Thơ ông đã bày tỏ chất phiếm du của một người đã phong nhụy chất thơ trên đường đời, trong đó tình yêu như ánh sáng. Bài Bến Tâm Hồn là một điển dẫn:
* bài tặng anh chị quỳnh
lênh đênh hồn ngủ phương này
thương mưa Hà Nội nhớ mây Hoàng Hà
mười năm dài những xót xa
bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn
mênh mông hồn ngủ phương buồn
đêm sương Cầu Giấy Chợ Hôm canh gà
tóc thề nẻo gió áo hoa
trôi từ chinh chiến trôi qua điêu tàn
lênh đênh hồn cắm sào ngang
năm Ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ
(Bến Tâm Hồn)
Như trên đã nói, tiết điệu trong thơ Du Tử Lê thật đặc biệt. Nói là đặc biệt vì tiết điệu ấy pháy hiện tình cờ mang theo cung độ của sự lên bổng xuống trầm ăn khớp với từng ý thơ - hay đúng hơn hòa theo từng cơn ba động của tâm hồn và cân não theo vận hành của nhịp tim.
Du Tử Lê sáng tác rất mạnh. Làm thơ đối với ông như thể một sinh thú nuôi dưỡng lòng đam mê. Thơ ông còn là nơi trú ẩn của tâm hồn ông vốn thường xuyên đơn lạnh. Thơ ông phần lớn là tiếng tình vọng của một người “yêu rất nhiều mà... không được bao nhiêu” trong suốt tháng ngày vẫn miệt mài đuổi theo cơn tình mộng, nuôi dưỡng nó cho tâm hồn nguôi ngoai những phiền muộn cùng nó.
Bài “Cho Ngày Mười Bốn - Mười Một” cũng đủ nói lên phần nào tâm trạng của Du Tử Lê trong một vùng băng rã của yêu, mà con tim tựa hồ như con chim non sợ ná bởi đã từng mang thương tích. Kẻ săn đuổi không ai khác hơn giai nhân mà mình hằng tôn thờ.
1.
bao giờ mưa cũng kéo qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi, như thế)
em có còn đó hay khônh
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
những ngày mưa bẻ gập đời anh thấp xuống
cho nỗi buồn mưng lên
chín trên từng ngọn cỏ
khi ánh sáng tình em
phút tình cờ bỗng tắt
đời nhạt nhẽo liếm môi mình cũng nhạt
tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây
em phải nhớ dùm anh
lệ không chảy
dù tim ứ tràn máu mặn
hồn không tan vì đeo đá đau thương
2.
bao giờ mưa cũng kéo qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi như thế)
em có còn đó không
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
sân khấu đời vẫn vậy
diễn lại một thói quen
mưa mỗi năm một lần
đêm hằng hằng bóng tối
chỉ riêng cảm tình ta
mỗi ngày một lạ lẫm
khi yêu em tôi cạn hồn đắm đuối
đời chẳng còn gì hơn
ngoài những tờ thư cũ
tôi sống nốt đời mình
trong dối lường tất cả
tôi chỉ đúng là tôi
khi nghĩ về một người (đã mất)
tình yêu là mảnh đất
sớm muộn gì cũng mọc lên loài cây hối tiếc
ta chỉ thấy được mình
trong khu vườn cây ấy
tôi ước ao một sáng trời hồng
người tình cờ ghé ngang vườn tôi
và xin nhớ đừng kinh ngạc
nếu đọc thấy tên mình
trên tấm biển đề trước cổng
(có thể nét khắc lúc đó đã hơi phai
nhưng tôi vẫn tin còn rõ lắm
bởi tấm biển đá kia
chính là tim tôi
với thời gian hóa thạch
và dao dùng để khắc
không có gì khác hơn những mảnh xương tôi vỡ vụn)
phải thế không huyền châu
trái sầu nào chả chín
lúc cuộc tình đã bay
có nỗi tuyệt vọng nào
không đeo cổ những người bất hạnh
vì thế mà lúc chết
ta không thể đứng yên
cũng rất khó ngồi cho vững
bởi thế nào rồi cũng ngã vật
nằm ườn như khúc cây
trên một giòng nín lặng
3.
bao giờ mưa cũng kéo dài qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi, như thế)
em có còn đó không
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
tôi vẫn còn mở mắt
trông bóng người không in
tôi vẫn còn khối óc
ghi đủ tên tuổi người
và những lời hứa hẹn
tôi còn nguyên khối lệ
mừng người khi hay tin
vĩnh biệt thời con gái
tôi còn đủ đôi chân
để đi bên cuộc tình
(của người và chồng con)
cho đến ngày nhắm mắt
phải thế không huyền châu
CAO THẾ DUNG
(Thi Ca và Thi Nhân, 1968)