Du Tử Lê, Linh Hồn
Thưa anh Du Tử Lê, chúng tôi hãnh diện và, sung sướng biết bao, khi có Anh: Một người Việt Nam, như (và, giữa) chúng tôi, nơi đất khách.
Tôi xin mượn lời của anh trên đây, trong bài tựa, anh giới thiệu tác phẩm mới của nhà văn, LM Trần Cao Tường: “NHỊP MÚA SÔNG THANH”. Tôi chỉ đổi chữ Cha, viết hoa của anh; bằng chữ Anh, viết hoa của tôi, để diễn tả niềm hãnh diện, cái chân tình, và lòng cảm mến của chúng tôi với anh. Niềm cảm mến không chỉ với thơ, mà còn với thể văn-phạm mới, của chữ Việt, mà anh đã khởi xướng. Văn học cũng như chính trị, phải đổi mới để đáp ứng cuộc sống con người, nhất là con người trong ngàn năm thứ ba.
Kính thưa Quí Cha, kính thưa quí vị, cũng trong bài tựa giới thiệu tác phẩm “NHỊP MÚA SÔNG THANH” nêu trên, Du Tử Lê viết: “Con đường đó, Con Đường Trần Cao Tường, trên tất cả, với riêng tôi, chính là chiếc cầu nối tôi, kẻ ngoại giáo, về với niềm tin Thiên Chúa”. Thật ra, thơ của Du Tử Lê cũng chính, đã, là chiếc cầu đó. Tháng 12/77, Du Tử Lê viết bài “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”. Chỉ trong bài thơ ngắn đó, hai lần anh nhắc tới linh hồn. Con người có linh hồn là con người có niềm tin nơi đấng Tối Hậu, Thiên Chúa. Tôi yêu, mê, say đắm, bốn câu mở đầu:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một nấm mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Hai câu kết thì thật là tuyệt vời, diệu:
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Du Tử Lê đã diễn tả cái triết lý sâu thẳm, niềm tin cao siêu, của những người theo Chúa. Khi chết, tiền bạc của cải, danh vọng, buồn, vui đều “hết” và thể xác chúng ta “tận tuyệt với linh hồn”. Vâng, linh hồn không chết theo, với, thể xác. Người Mỹ có câu: “Born Twice, Die One”. Xin tạm dịch là “Nhị Sinh, Nhất Tử” hay “Sinh Hai, Chết Một”. Khi sinh ra, chúng ta được sinh ra hai phần: thể xác và linh hồn. Khi chết đi, chỉ có phần thể xác chết. Đấy, thơ anh đẹp, thế đó, mà còn gói ghém được một giáo điều. Thật tuyệt, là, tuyệt.
Có một chút, không ổn, tôi xin anh Du Tử Lê cho phép tôi nêu ra đây. Mai này không ai nói được rằng, tôi, Chu Văn Hùng, không thật lòng với anh Du Tử Lê. Cái chút đó, nằm trong lãnh vực tâm linh. Không làm thay đổi, một chút nào, cái giá trị văn học tuyệt vời mà Du Tử Lê đã đạt tới. Cái chút đó, nằm vô tình, ở một đoạn thơ trong bài “Chào 21, vết thương, tôi” (trang 157, tác phẩm “Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ!”):
… bằng phương pháp cloning
người ta sẽ sản xuất hàng loạt những con vật...
giống như người
(chỉ khác con người ở chỗ không có đầu)
để lấy bất cứ một bộ phận nào trong khối thịt kia
thay thế cho những cơ quan cần đổi thay trong thân thể ta
(bỏ một đoạn)
chúng ta vẫn bất lực
trước những người đã chết
(bỏ một đoạn)
như cuộc tình chúng ta
(và cuộc tình của biết bao người khác, quanh ta)
đã chết
từ thế kỷ trước
sẽ chết: một lần nữa
như linh hồn của những khối thịt không đầu kia
sẽ bơ vơ biết bao
vì chẳng có một ngôi đền nào
để trú, núp...
Tôi có người con gái hành nghề Bác-sĩ mổ đã 6 năm và có liên hệ đến việc khảo nghiệm khoa-học cloning. Tôi thảo luận nhiều với cháu, và các bác-sĩ đồng nghiệp của cháu, về vấn đề này. Vâng, nơi phòng thí nghiệm, người ta có thể lấy một chút thịt của một người, để làm ra hàng ngàn người đó (có đầu và/hay không có đầu để lấy bộ phận).
Nhưng, chắc chắn, không ai có thể làm ra “linh hồn” cho những người đó. Những người cloning, không do tinh trùng của người nam và trứng của người nữ tạo ra, thì chỉ “Born One, Die One”, chỉ “Sinh Một, Chết Một”, chỉ sinh xác mà không sinh hồn. Chính Đức Kitô cũng đã nói: “Flesh gives birth to flesh, but spirit gives birth to spirit – Thể xác sinh thể xác, nhưng thần khí sinh thần khí” (Gioan 3-6). Cái chút đó chỉ có thế, thế thôi. Mong anh Du Tử Lê thứ lỗi nếu tôi hiểu lầm ý thơ của anh.
Kính thưa quí Cha, kính thưa quí vị. Điều gì sẽ xảy ra khi mà từng đám người không hồn, xuất hiện chung quanh chúng ta? xin hãy dùng sức mạnh của lá phiếu, buộc cường quốc này phải có một đạo luật rõ ràng, mạnh mẽ, toàn diện, ngăn chận hiểm họa “cloning con người”, trên toàn thế giới.
Tôi đọc thơ Du Tử Lê năm 1958, qua tạp chí Mai. Khi đó tôi đang bước vào cái tuổi của yêu, thơ, nhạc và hoa Phượng đỏ thắm trên trang giấy học trò. Đến nay, anh đã có 42 năm sinh hoạt, đi từ tượng trưng, đi từ tượng trưng, đến ấn tượng, đến siêu thực. Anh đã góp vào nền văn học 37 tác phẩm. Thơ anh đã được phổ nhạc rất nhiều. Nhà văn Mai Thảo cho biết: “Du Tử Lê là một trong bảy nhà thơ lớn nhất của Việt-Nam trong thế kỷ 20”. Thế kỷ 20 chỉ còn 18 ngày nữa là hết, không ai đủ thời gian để lấn chỗ đứng của anh. Thơ Du Tử Lê đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và được dạy tại nhiều đại-học. Năm 1995, Giáo-sư Tiến-sĩ Neil Jameison, Đại-học UC Berkeley, đã viết cuốn Understanding Vietnam, một tài liệu giáo khoa bậc đại-học và đang được giảng dạy tại nhiều trường. Trong cuốn đó, có thơ Du Tử Lê. Đó thật là một niềm hãnh diện. Mai đây, thơ Du Yử Lê cũng sẽ được dạy tại hệ thống đại học Concordia, nơi có 10 đại-học Hoa Kỳ, nhiều đại học ở Đức, Canada, và đang có hơn 15,000 sinh viên Mỹ theo học; tôi đang giảng dạy trong hệ thống đó. Ở California, nơi anh Du Tử Lê ở, cũng có Đại học Concordia, nằm trên một quả đồi xinh đẹp của thành phố Irvine, với hơn 3,000 sinh viên.
Trước khi dứt lời. Để hiểu Du Tử Lê hơn, để cảm mến Du Tử Lê hơn, tôi xin đọc một đoạn văn ngắn của anh, đang được phổ biến trên internet, trang Tin Vui Thời Điểm: “Càng ngày, tôi càng thấy rõ, mỗi chúng ta, hiện diện trên mặt đất này, để hoàn tất một công việc nào đó, mà Thượng Đế đã chọn sẵn cho từng cá nhân... Ngợi ca tình yêu, qua chiếc cầu văn học nghệ thuật, với tôi, là công việc của văn nghệ sĩ. Cá nhân nhỏ mọn của tôi, là giúp cho những người đọc tôi, qua thi ca, cảm nhận ra rằng khởi sự tình yêu mang tính cá nhân, gia đình, người ta sẽ có tình yêu tổ quốc, và rộng hơn nữa, tình nhân loại. Khi bước tới tình nhân loại, là bước tới gần ánh sáng của Thiên Chúa, của Thượng Đế vì, nhân loại, dù màu da, khu vực địa lý nào, cũng đều là con cái của Chúa cả”.
Xin cám ơn quí Cha và quí vị
Xin cám ơn, chào anh Du Tử Lê, thân ái.
Chu Văn Hùng
Giáo sư Đại học Concordia
(Bán nguyệt san Ngọc Lân, ngày 15-12-1999)