* Và Nguyễn Mạnh Hùng DC
Tôi không biết có phải những thỏi nước đá lạnh buốt, đan kết nhau như một tấm lưới lớn đã giải thoát tôi khỏi những vòi bạch tuộc của ác mộng; sau khi trận mưa xầm xập sấp, ngửa sớm mai, bất ngờ ngưng bặt? Hay đó là lúc ác mộng đã đi gần hết con đường khủng bố, tra tấn như một thuộc tính bệnh hoạn của nó?
Tôi cũng không biết cái trò chơi nghẹt thở, ác mộng kia, có dành cho ai khác, ngoài tôi? Mong là không. Dù tôi chưa hề hỏi nó. (Nếu có hỏi, tôi cũng không tin nó sẽ nói thật mọi điều. Trừ những “thực đơn” kinh hoàng, thay đổi liên tục mà, nó đã tọng vào cổ họng tôi nhiều ngày qua.)
Lần nào ra khỏi ác mộng, tôi cũng thấy tim mình muốn bung khỏi lồng ngực. Miệng tôi khô. Đắng. Các hạch nước miếng trong miệng, dường không đủ xoa dịu cơn cháy, rát. Lần nào, cũng phải vài giây sau, tôi mới thực sự nhận biết: Đó chỉ là ác mộng.
Riêng lần mới nhất, tuồng mất nhiều lần hơn, vài giây.
Ác mộng cho tôi sống lại một lần nữa, hình ảnh hỗn loạn của khu bến tầu Bạch Đằng. Chiều 29 tháng 4. Ba mươi lăm năm trước. Những hình ảnh chập nhau. Những hình ảnh tái hiện. Chồng. Chéo.
Đó là lúc mưa đã bắt đầu nặng hạt. Nhưng những cột khói bốc lên từ sân thượng tòa đại sứ Mỹ đường Thống Nhất, vẫn uể oải vươn lên. Như thể chúng chẳng có một liên hệ gần, xa nào với đám người như lũ chuột lở, loét bị hun lửa hai đầu.
Giữa khi ấy, tôi thấy tôi bị Trung tá Xuân, người chỉ huy an ninh của bộ Tư Lệnh Hải Quân xô tôi vào vòng tròn kẽm gai; Sau khi ông đã cột tay tôi bằng những sợi giây dù. (Loại giây vải mà hồi bé, tôi từng mơ ước có được vì tính bền, chắc và, óng ánh mầu sắc, để chơi nhẩy dây với chị Băng tôi.)
Tôi không biết tôi bị giam giữ vì tội gì? Trung tá Xuân và, những người lính Quân Cảnh của ông đã bỏ đi. Trước mặt tôi, chỉ có dòng người di tản lướt, trôi. Như thác.
Họ đổ về cầu tầu. Nơi ba chiếc chiến hạm của Hải Quân chưa tách bến. Tôi ngước đôi mắt tuyệt vọng, cầu cứu…Chẳng những không một ai đoái hoài mà, làm như hình ảnh tôi còn khiến họ rảo bước.
Trong cuộc chạy đua cắn mức ăn thua giữa sống chết, dường không ai muốn thấy thêm người nhập cuộc!?!
Nhưng, bất ngờ, trong giấc mơ, có một người đã nhìn tôi. Hạnh. Tôi không biết cách nào, tại sao Hạnh lại có thể có mặt trong đám người ồn ào lao tới góc thiên đàng này. Tôi thấy Hạnh ngoái với đôi mắt ngơ ngác. Kinh hoàng. Sợ hãi. Tôi đưa hai bàn tay bị trói về phía Hạnh. Tôi gào tên nàng. Khẩn khoản. Cầu lụy. Như thể Hạnh là Thượng Đế. Đấng cứu chuộc xuất hiện đúng lúc.
Tuy nhiên, tiếng gào thét của tôi, tuồng chỉ khiến Hạnh bước nhanh hơn. Tốc độ di chuyển của Hạnh gia tăng thuận chiều với những đường vạch bàng hoàng trên gương mặt. Những tia nhìn của Hạnh, cho tôi thấy, trong mắt Hạnh tôi là một quái vật. Con quái vật thình lình hiện ra giữa buổi chiều. Cơn mưa. Cụm khói nóc tòa đại sứ. Và, bước chân đuổi của thần chết…
Khi hình ảnh Hạnh vừa khuất thì, một hình ảnh khác hiện ra. Cũng trong đám người cuống cuồng đi tìm sự sống kia. Đó là hình ảnh mẹ tôi.
Giống như Hạnh, mẹ tôi thất thần, bước thấp, bước cao về phía những chiếc tầu còn neo trong bến. Tôi thấy bà có chậm lại. Bà có ngoái nhìn tôi đôi lần. Nhưng vẫn với đôi mắt kinh hòang, dành cho một ác quỷ!
Thấy bà, tôi lại gào lên. Tôi cầu cứu. Nhưng tiếng kêu của tôi, dường cũng chỉ khiến bà tăng thêm hốt hỏang, lùi xa tôi hơn mà thôi.
Trong giấc mơ, tôi nghĩ, Hạnh có thể bỏ tôi. Bất cứ một người tình nào, cũng có thể bỏ tôi. Riêng mẹ tôi thì không. Tôi tin, nếu bà không thể chết vì tôi thì, chí ít bà cũng sẽ không bỏ rơi tôi, giữa hoàn cảnh này…
Tiếp theo hình ảnh mẹ tôi là, hình ảnh Thục. Tôi thấy tôi đi tìm Thục giữa một Vũng Tàu, tháng Tư, bãi trước. Những cây bàng có tuổi thọ nhiều lần hơn tôi bị ai đó chặt đầu. Phạt ngang thân. Có cây bị đốn tới tận gốc. Tôi phải trèo qua chúng. Tôi nhắm mắt, liều lĩnh lao về phía biển; khi hình ảnh Thục và những đứa con của anh chị Tiến, trên một chiếc tầu buôn, xa dần. Tôi cảm được nước biển ngang lưng. Ngang ngực…Khi nước xộc vào mũi, khiến tôi không thể thở được thì, đó cũng là lúc hình ảnh Thục mất hẳn.
Bây giờ tôi không nhớ, sau Thục là ai? Những người thân nào? Tôi chỉ nhớ, nhiều lắm. Chập, trùng. Chòng. Chéo…
Tôi chỉ nhớ trong một giây nhãng quên, hoặc do bản năng sinh tồn đẩy, thúc tôi vùng chạy về cuối đường. Tôi vói đôi tay bị trói về phía của những người thân. Phía của Hạnh. Phía mẹ tôi…
Nhưng cuộn thép gai cao ngang tầm ngực, chận tôi lại. Rồi máu. Tôi không biết máu ở đâu? Từ những phần cơ thể nào? Bục vỡ. Thành vòi. Bỗng ai đó, sau lưng tôi, nhấc bổng tôi lên. Y ném tôi vắt ngang người trên cuộn thép gai. Như người ta hờ hững vứt lên nó, một miếng giẻ. Rách.
Không biết phải mất bao nhiêu giây sau, tôi mới hoàn hồn, nhận ra rằng: Không. Bến tầu Bạch Đằng, chiều 29 tháng 4 đã lùi xa. Đã ba mươi lăm năm khuất. Lấp.
Không. Trung tá Xuân, người chỉ huy an ninh bộ Tư Lệnh Hải Quân, chiều hôm đó, chính là người đã ra lệnh cho những Quân Cảnh dưới quyền ông, kéo một con ngựa kẽm gai, hé mở cho tôi cùng anh chị và, các cháu tôi, một khoảng trống đủ rộng, để nhào về phía cầu tầu.
Không. Sự thật, Hạnh đã kẹt lại.
Sáng 29, nhờ có thẻ báo chí và, giấy phép đi trong giờ giới nghiêm, tôi chở Hồ Trường An bị thương đêm trước, từ Làng Báo Chí ở bên kia cầu Xa Lộ đến bệnh xá của Tiểu đoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị, băng bó vết thương cho anh. Trở ra, chúng tôi chạy xe thênh thang giữa một Saigòn thoi thóp, như bị đánh thuốc mê quá liều lượng.
Saigòn giới nghiêm. Quán xá đóng cửa. Hồ Trường An nói, thèm một ly cà phê. Tôi đáp, tôi cũng vậy. Tôi bảo anh, yên trí. Tôi sẽ có một ly cà phê cho anh. Tôi chở thẳng Hồ Trường An tới cư xá Thanh Đa, nơi Hạnh từ Pleiku, sống sót sau nhiều lần thoát chết trong cuộc tháo chạy trên liên tỉnh lộ 7B.
Về Saigòn tìm tôi, Hạnh ở tạm nhà người cậu.
Tôi không nhớ Hạnh có cho chúng tôi ăn gì không? Nhưng cà phê thì có. Tôi nói với Hạnh về chuyện ra đi. Hạnh ngập ngừng. Cuối cùng, Hạnh bảo, thôi để Hạnh ở lại…
Tôi muốn nói, tôi biết chắc chắn, Hạnh không thể có mặt trong đám người cuống cuồng tràn về bến Bạch Đằng hôm đó.
Chia tay Hạnh, tôi thả Hồ Trường An giữa Saigòn không dưỡng khí. Quay xe trở lại cục Tâm Lý Chiến, trên bàn làm việc của mình, tôi thấy mảnh giấy viết vội của chị Băng. Chị bảo, mẹ tôi rất lo. Không biết tôi sống chết ra sao! Ở đâu thì tôi cũng phải về ngay Trương Minh Giảng. Để bà thấy mặt.
Cho tới lúc bến Bạch Đằng mưa nặng hạt và, những cột khói bốc cao từ sân thượng Tòa đại sứ Mỹ đường Thống Nhất, tôi chưa gặp mẹ tôi. Tôi không tin bà có mặt trong đám người di tản kia, với bất cứ lý do gì!
Khi trấn tĩnh được mình, tôi cũng nhớ lại rằng, trong mười năm đầu của cuộc đời tỵ nạn, tôi đã viết xuống, lần lượt chuyện Hạnh. Thục. Chị Băng. Và, mẹ tôi. Tôi không hiểu lý do gì, thuở đó, tôi lại ghi là truyện ngắn. Trong khi chúng là hồi ký hay, một loại tự sự kể.
Riêng chuyện về Trung tá Xuân, ân nhân cứu tử toàn thể gia đình người anh lớn của tôi, gia đình bác Lộc (bạn cùng ngõ với anh tôi,) Nguyễn Xuân Quỳnh, bạn của cháu tôi và, đám thanh niên bu theo…tôi cũng đã viết xuống, in ra, như một nhớ lại ngậm ngùi ân nghĩa.
Tôi biết… Biết…
Trước khi khép lại câu chuyện về Trung tá Xuân, tôi viết, tôi hy vọng sau khi lo cho mọi người, Trung tá Xuân cùng những người lính Quân Cảnh của ông, cuối cùng cũng lên tầu.
Trường hợp này, ở đâu đó, xin ông nhận ở nơi tôi, lời cảm ơn cứu tử của tôi, và những người đã theo tôi vào được bến. Lên tầu, thoát đi. Buổi tối, cũ.
Tới nay, đã ba mươi lăm năm, tôi không được một tin tức nào từ ông. Luôn cả đồng đội Hải Quân, những người biết ông, cũng trả lời tôi, họ không có một chút tin tức nào về ông; khi những chiếc chiến hạm cuối cùng của Hải Quân, rời bến Bạch Đằng…
Tôi cũng không biết gia đình bác Lộc, bây giờ ra sao? Hai người con gái của bác, còn ở
Riêng Nguyễn Xuân Quỳnh chết cách đây nhiều năm ở
Tôi biết Hồ Trường An vượt biên rất sớm. Anh chọn định cư ở Pháp. Thành phố
Tôi biết cuối cùng, Thục cũng đi được, từ Vũng Tàu, cùng đám cháu, con của anh chị Tiến. (Cách đây vài năm, Thục đã bỏ những năm tháng ở Ý, để tái định cư ở
Tôi biết… Và nhớ…
Tôi nhớ ít ngày trước đây, một buổi sáng, tôi than với T., không hiểu tại sao, gần đây tôi luôn thấy mình “thất lạc.” Tôi thấy tôi bị “bỏ rơi” trong những cơn ác mộng liên tiếp của mình.
Bây giờ, tôi hiểu. Tôi hiểu, dù đã ba mươi lăm năm trôi qua, tháng 4 vẫn ở với tôi, cách của nó. Như kỷ niệm. Như ký ức. Chúng có đời riêng. Chúng độc lập. Chúng vô can!
Chúng chỉ mượn tôi, để duy trì sự sống của riêng chúng. Dù cho chúng chính là:
Tháng tư. Ký ức tôi. Xám.
Du Tử Lê,
(