Nhiều năm trước đây, trung tâm Thúy Nga
Nhân dịp này, trả lời câu hỏi về nguyên ủy của bài thơ và ca khúc đó, nhà thơ Thái Thủy cho biết, bài thơ “Lá thư gửi mẹ” của ông được thi sĩ Đinh Hùng chọn đăng trong Giai phẩm Xuân Tự Do, xuất bản tại Saigòn, năm 1955.(4)
Khi nhạc sĩ Nguyễn Hiền tình cờ đọc được bài thơ ấy, họ Nguyễn đã chắp thêm cho nó, đôi cánh âm nhạc.
Trọn vẹn ca khúc đó, như sau:
Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa Cho lòng già nặng sầu thương Con đi say tình viễn xứ Đâu có quên tình cố hương Thương ngóng về quê cũ Gót thù xéo thảm thê Bầy trai thầm rơi lệ Súng gươm hẹn mai về Con về tằm đẹp lứa Mẹ cười vun khóm dâu Mái tranh nghèo vươn khói Vườn thơm ngát hương cau Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa Cho lòng già nặng sầu thương Con đi say tình viễn xứ Đâu có quên tình cố hương (5)
Tới hôm nay, dù đã hơn nửa thế kỷ, nhưng mỗi khi ca khúc này được cất lên, nó vẫn còn gây xúc động người nghe không ít.
Một người bạn từ thời Hà Nội của nhà thơ Phạm Thái Thủy tiết lộ rằng, tác giả “Lá thư gửi mẹ” làm thơ rất sớm. Từ những ngày niên thiếu tại Hà Nội, ông đã có thơ được đăng tải trên một số báo xuất bản thời đó. Điển hình như tờ Giang Sơn, một tờ báo mà những ai từng sống ở Hà Nội đầu thập niên 1950, không thể không biết.
Vẫn theo lời kể thì, tính đến 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Thái Thủy đã sáng tác
Giai đoạn họ Phạm làm được nhiều thơ nhất là thời gian đầu khi mới di cư vào miền Nam và, thời gian ông đảm nhiệm vai trò Thư ký tòa soạn cho Tạp chí Hiện Đại của thi sĩ Nguyên Sa.
Nhưng bản chất Thái Thủy là người khiêm tốn, không thích khoa trương tên tuổi cho nên, ngay từ Việt Nam, khi một vài bằng hữu đề nghị Thái Thủy gom thơ của mình lại, để có thể in thành một tập…Ông đã từ chối… Người bạn này nói thêm:
“Thậm chí khi được định cư tại Hoa Kỳ, cố thi sĩ Nguyên Sa cũng bảo Thái thủy đưa thơ của mình, để nhà xuất bản Đời ấn hành…Ông cũng đành tạ tình thương mến của bạn…”
Thái Thủy không chỉ không nhớ thơ của mình mà ngay cả số thơ ông lưu giữ được, cũng chỉ độ mươi, mười lăm bài mà thôi.
Về vai trò Thư ký tòa soạn Tạp chí Hiện Đại của Thái Thủy, sinh thời, thi sĩ Nguyên Sa cho biết, đầu thập niên 1960, ông được bác sĩ Trần Kim Tuyến đề nghị thực hiện một tạp chí thuần túy văn học cho miền nam, song song với những tạp chí đang có mặt như Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn Nghệ…
Sự kiện chính phủ muốn có thêm một tạp chí nữa ra đời, cũng không ngoài mục đích khuyến khích, xiển dương nền văn học nhân bản và, khai phóng của miền nam Việt
Tác giả “Áo lụa Hà Đông” kể vì ông quá bận bịu với công việc dạy học, nên ông đã mời nhà thơ Thái Thủy phụ trách phần tòa soạn, bài vở. Nhà báo Trịnh Viết Thành phụ trách phần ấn loát và phát hành.
Khi đó, nhà báo Trịnh Viết Thành cũng là chủ nhà in Nam Sơn ở gần ngã tư đường Trương Công Định và Nguyễn An Ninh, Saigòn.
Tạp chí Hiện Đại không chỉ in tại nhà in Nam Sơn mà tòa sọan cũng được đặt trên lầu của nhà in này, để tiện việc điều hành và in ấn.
Vẫn theo cố thi sĩ Nguyên Sa, tuy được tài trợ bởi chính phủ, nhưng cá nhân ông không biết một chút gì về số tiền chi tiêu hàng tháng của Hiện Đại.
Hàng tháng một nhân viên của Phòng Nghiên Cứu Chính Trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến đến tòa soạn Hiện Đại, giao thẳng tiền cho nhà báo Trịnh Viết Thành. Nhà thơ Thái thủy cũng không biết số tiền trợ cấp hàng tháng là bao nhiêu.
Ông chỉ nhận đủ số tiền chi dùng cho việc trả tiền nhuận bút cho các cộng tác viên.
Tạp chí Hiện Đại chủ trương trả nhuận bút đồng đều cho thơ cũng như văn là 1000$ một bài.
Trong một cuộc nói chuyện về “thời” của tạp chí Hiện Đại, nhà thơ Thái Thủy kể, Hiện Đại số 1, ra đời vào tháng 4 năm 1960, ngoài ba nhân vật chịu trách trực tiếp là Nguyên Sa, Trịnh Viết Thành và Thái Thủy, Hiện Đại còn nhận được sự cộng tác tích cực ngay tự những ngày khởi đầu của các tác giả như Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Văn Trung, Đinh Hùng, Thanh Nam…
Khi tờ báo ra được 7, 8 số thì cuộc đảo chánh của đại tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11 tháng 11 năm 1960, xẩy ra…
Hậu quả của cuộc đảo chánh này, tuy bất thành, nhưng cũng để lại khá nhiều xáo trộn trong sinh hoạt chính trị, xã hội, cũng như văn hóa của miền
Chính vì thế, sau khi ra số 10 vào khoảng tháng 2 năm 1961, tờ Hiện Đại đình bản.
Trước thời gian tạp chí Hiện Đại ra đời, là thời gian thi phẩm “Thơ Nguyên Sa” Tập một của thi sĩ Nguyên Sa được xuất bản. Ngay lập tức, thi phẩm đã được chào đón nồng nhiệt, như một hiện tượng hiếm thấy, nhất là trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh ở miền Nam.(6)
Trong thi phẩm này, có nhiều bài thơ giá trị, viết cho tình bạn. Một trong những bài đó là bài “Bây giờ”. Nguyên Sa đề “TặngThái Thủy.”
Nguyên văn bài thơ như sau:
Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa.
Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài
Nên có gửi cho ai vài giọng nói
Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi.
Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc
Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao
Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét
Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào.
Năm ngón tay có bốn mùa trái đất
Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân
Có cất tiếng đòi to. Tiếng đòi rơi rụng
Những âm thanh làm thành sẹo trong hồn.
Chúng tôi chót ngẩng đầu nhìn trước mặt
Trán mênh mông va chạm cửa chân trời
Ngoảnh mặt lại đột nhiên thơ mầu nhiệm
Tiếng hát buồn đè xuống nặng đôi vai. (7)
Qua những gặp gỡ đây đó, hơn một lần tôi định hỏi Thái Thủy: Giữa thi ca, phát thanh, làm báo… đâu là con người gần nhất với bản chất của ông? (Hay)
- Đâu là con người thật của một Phạm Thái Thủy, sau nhiều thăng, trầm eo xèo nhân thế?
Cuối cùng, tôi thấy không cần thiết.
Bởi vì, cách gì thì, định mệnh cũng đã chọn ông, một đời, làm người đứng sau mọi cột mốc, sinh hoạt văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm, đã qua.
Du Tử Lê
(Tháng 7-2010.)
Chú thích:
(4): Là một thành viên nòng cốt của nhật báo Tự Do, thời gian đó, thi sĩ Đinh Hùng không chỉ tuyển chọn thơ cho tờ báo mà, ông còn viết tiểu thuyết dã sử với bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang và, phụ trách mục “Đàn ngang cung” với bút hiệu Thần Đăng nữa.
(5): Theo dactrung.com
(6): Ấn bản đầu tiên, Saigòn, năm 1958.
(7) “Thơ Nguyên Sa Toàn Tập”, trang 53&54. Đời xuất bản.