Trong lãnh vực văn học, nghệ thuật ở nơi nào, thời nào cũng có một số tên tuổi được xưng tụng như những đỉnh cao rực rỡ vì lý do phe phái, chính trị hay địa phương. Tính chất lộng giả thành chân, sự kiện phát hành bạc giả này, đôi khi kéo dài qua nhiều thế hệ. Những thế hệ kế tiếp, bị những bóng ma ám thị, đã nhắm mắt tung hê theo vì sợ bị chê là kém…trình độ! Nhưng, mặt khác, cũng có những tài năng thực sự bị lãng quên, hoặc không được đánh giá đúng mức, phổ cập rộng rãi quần chúng.
Một trong những tài năng lớn của hai mươi năm văn học, nghệ thuật miền Nam, chưa được đánh giá đúng mức, phổ cập rộng rãi quần chúng, là cố nhạc sĩ Văn Phụng. Di sản âm nhạc mà ông để lại cho thế hệ sau là một di sản đồ sộ với nhiều thể tài, thể loại âm nhạc khác nhau. (1)
Từ loại nhạc vui tươi, trong sáng, qua tới loại nhạc chan chứa tình tự quê hương và, nhất là những tình khúc của Văn Phụng, từ trên dưới nửa thế kỷ qua, đã là những món ăn tinh thần quen thuộc của người Việt ở cả hai miền Nam, Bắc.
Với hàng trăm ca khúc đã phổ biến, tính tới ngày người nhạc sĩ đa tài này từ trần, thì quá nửa số ca khúc của ông, có chỗ đứng rực rỡ trong tâm hồn người thưởng ngoạn. Chúng đã được thời gian khách quan đãi lọc. Những ca khúc ấy của ông, trở thành những hạt ngọc thuộc về di sản âm nhạc của Việt Nam. Con số đó rất lớn!
Tôi không biết có phải vì tài năng ngoại khổ của ông, bao trùm nhiều kênh, tuyến nghệ thuật khác nhau hay không mà, có rất nhiều sáng tác nổi tiếng của ông đã bị tưởng lầm, của tác giả khác!
Điển hình như ca khúc quen thuộc “Nhớ bến Đà Giang”, có những câu như: “Ai qua bến Đà Giang / Cho tôi nhắn vài câu / Thương về mái tranh nghèo bên hàng cau / Chia ly đã từ lâu / Ôi mong ước làm sao / Bao nhiêu bóng người thân mến năm nào / Tôi thương mái chèo lơi / Bên manh áo tả tơi / Những người lái con đò trên dòng nước / Ai xuôi bến Đà Giang Nghe trăng gió thở than / Bâng khuâng ngắm dòng sông nước mơ màng / Đà Giang nước biếc / Thuyền theo sóng triền miên / Người ơi, có nhớ ? Lòng ta vẫn mong chờ / Tôi mơ bến ngày xưa Bên đôi mái chèo đưa / Nhịp nhàng gió ru hoà duyên tình nước / Ai xuôi bến Đà Giang / Ai qua chuyến đò ngang /Cho tôi nhắn niềm thương nhớ dâng tràn…” Nhiều người không ngờ là của Văn Phụng.
Cũng thế, với ca khúc “Trăng sáng vườn chè” nhiều người có thể hát theo một cách dễ dàng: “Sáng trăng sáng cả vườn chè / Một gian nhà nhỏ đi về có nhau / Vì tằm tôi phải chạy dâu / Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay / Chồng tôi thi đỗ khoa này / Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi. / Kẻo không rồi chúng bạn cười / Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa / Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa / Anh chưa thi đỗ thì chưa (thì chưa) động phòng…” Nhưng họ lại không biết Văn Phụng là tác giả!
Ở lãnh vực thơ phổ nhạc, Văn Phụng để lại cho đời 3 ca khúc nổi tiếng. Ngoài “Trăng sáng vườn chè,” thơ Nguyễn Bính vừa kể, ông còn là tác giả của ca khúc “Các anh đi.” Ca khúc này, có những câu như: “Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi / Các anh đi, đến bao giờ trở lại / Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông / Làng tôi nghèo nho nhỏ ven sông / Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ / Làng tôi nghèo gió mưa tơi tả / Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi (…) Làng tôi nghèo xóm nhà tre / Các anh về không chê làng tôi bé nhỏ / Nhà lá đơn sơ... nhưng tấm lòng rộng mở / Nồi cơm nấu đỗ, bát nước chè xanh / ngồi vui kể chuyện tâm tình xa xôi…”
Khi được hỏi về tác giả, có người quả quyết là Đan Thọ! (Nhạc sĩ Đan Thọ cũng để lại cho nền tân nhạc miền Nam 20 năm, nhiều ca khúc gia trị. Trong số, có ca khúc “Tình quê hương” phổ từ thơ của nhà thơ Phan Lạc Tuyên. Bài thơ tình cờ(?) có cùng một nội dung với ca khúc “Các anh đi,” thơ Hoàng Trung Thông, nhạc của Văn Phụng.)
Văn Phụng cũng là tác giả ca khúc “Hôn nhau lần cuối,” phổ từ một bài thơ khác, của Nguyễn Bính. Khi ca khúc này được phổ biến, những nốt nhạc tha thiết, chân thành, nâng giấc những lời thơ dỗ dành, an ủi, như những thề nguyền, ước hẹn không thể lãng mạn hơn, đã lấy đi rất nhiều nước mắt của những người nữ giầu tình cảm. Những người cùng hoàn cảnh hay, tự đặt mình vào không gian mà thơ Nguyễn Bính, nhạc Văn Phụng đã mở ra, phóng lớn, ngậm ngùi từng giây trong suốt cuộc chia ly nát ruột, đoạn bào:
“Cầm tay, anh khẽ nói: / Khóc lóc mà làm chi? / Hôn nhau một lần cuối / Em về đi, anh đi/ Em về đi anh đi / Rồi một, hai, ba năm / Danh thành anh trở lại / Với em, anh chăn tằm / Với em, anh dệt vải / Ta sẽ là vợ chồng / Sẽ yêu nhau mãi mãi / Sẽ xe sợi chỉ hồng / Sẽ hát ca ân ái / Anh và em sẽ sống / Trong một mái nhà tranh / Lấy trúc thưa làm cổng / Lấy tơ liễu làm mành / Nghe lời anh em hỡi / Khóc lóc mà làm chi / Hôn nhau một lần cuối / Em về đi, anh đi / Em về đi, anh đi… ” (Trọn bài.)
Dĩ nhiên, tài hoa ngoại khổ của Văn Phụng, không chỉ ở ba ca khúc phổ thơ vừa kể mà, còn ở các lãnh vực khác.
Một trong những lãnh vực, theo tôi, cố nhạc sĩ Văn Phụng là người đi trước, tiên phong mở đường, ngay những ngày mới di cư từ Bắc vào Nam. Đó là sự ghi nhận với tất cả lòng biết ơn vùng đất mới: Miền Nam. Còn nhớ, nếu những văn nghệ sĩ sinh trưởng ở miền Nam, không bị ảnh hưởng nhiều lắm, bởi hiệp định Geneva, chia đôi đất nước; thì ngược lại, đối với những văn nghệ sĩ vốn sinh trưởng ở miền bắc, lại là một cuộc địa chấn có độ Richter cao ngất. Nó như một trận Tsunami khốc liệt. Gây chấn thương trầm trọng thân, tâm họ. Vì thế, ngay những năm tháng đầu tiên ở miền Nam, về phía văn xuôi, chúng ta đã có một “Đêm giã từ Hà Nội” của Mai Thảo. Phía âm nhạc, chúng ta có ca khúc “Giấc mơ hồi hương” của nhạc sĩ Vũ Thành, với những ca từ như: “Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm khi heo may về / Lòng khách tha hương vương sấu thương / Nhìn “em” mờ trong mấy khói, bước đi nhưng chưa nỡ rời / Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly…”
Hay Anh Bằng, với ca khúc “Nỗi lòng người đi”: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu / Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều / Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ / Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa…” Cùng nhiều ca khúc khác nữa. Dù các nhạc sĩ này không trực tiếp nhắc tới hai chữ Hà Nội, trong sáng tác. Nhưng nội dung vẫn phản ảnh những đau đớn, tuyệt vọng của họ…Khi cuối cùng, họ phải chọn lựa lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, phần đất đã vun bồi, ươm giữ bao thành tựu tốt đẹp của họ.
Chỉ một người, tự bước chân thứ nhất trên phần đất mới, sớm ý thức được sự mở lòng của miền Nam, cảm nhận được những vỗ về thân ái của chín con rồng, chín dòng sông kia, là cố nhạc sĩ văn Phụng.
Cũng chỉ mình ông, sớm ngỏ lời cám ơn miền Nam nhân ái, xởi lởi, bát ngát tình nghĩa đồng bào (như ruộng đồng miền Nam, bát ngát,) qua ca khúc “Ghé bến Saigon.” Một ca khúc tự thân là những mạch sống hưng phấn niềm hân hoan, hãnh diện trong từng nốt nhạc, từng ca từ. Nhịp đập của ca khúc này, đã như những lượng máu rộn ràng chảy trong trái tim Việt Nam. Trái tim ba miền tổ quốc. Mà Saigon, biểu tượng: “Cùng nhau đi tới Saigon / Cùng nhau đi tới Saigon / Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do / Dừng chân trên bến Cộng Hòa / Người Trung Nam Bắc một nhà / Về đây chung sống hát khúc hoan ca / Ngựa xe như nước rộn ràng / Ngập muôn sức sống tiềm tàng / Đèn đêm tung ánh sáng như hào quang / Lòng vui chân bước dật dờ / Đường đi quanh khúc Bàn Cờ / Cùng nhau vui sống ấm say tình thơ / Người ơi Saigon chốn đây / Là Ngọc Viễn Đông / Vốn đã lừng danh / Nắng lên muôn chim đùa hót / Muôn hoa cười đón / Vinh quang ngày mới…”
Sau Văn Phụng, tân nhạc miền Nam cũng mang đến cho giới thưởng ngoạn những ca khúc ngợi ca miền Nam, ngợi ca Saigon từ một số nhạc sĩ di cư. Nhưng với cá nhân tôi, chúng vẫn là những tỏ tình, những biết ơn muộn màng, thiếu tính sâu sắc, được bọc ngoài bởi lớp vỏ hồn nhiên, tung tăng trẻ thơ, như tài hoa Văn Phụng.
Du Tử Lê
---------------------------------
Chú thích:
(1) Nhạc sĩ Văn Phụng họ Nguyễn. Ông sinh năm 1930 tại Hà Nội, trong một gia đình gia thế. Thưở nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh và, có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Năm 15 tuổi trong một cuộc thi dương cầm ở Nhà Hát Lớn, Hà Nội, ông đoạt giải nhất. Năm 16 tuổi ông đã thi đậu tú tài, một hiện tượng hiếm hoi thời ấy. Sáng tác đầu tay “Ô mê ly” viết năm 1948, khi ông mới 18 tuổi. Nhạc sĩ Văn Phụng mất ngày 17 tháng 12 năm 1999 tại Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.