Mười bảy năm về trước, năm 1980, tôi biết Du Tử Lê.
Chuyến tầu chợ khởi đi từ Mỹ Tho, nhắm hướng Cà Mau, sức chứa hơn trăm người, đa số là dân đi buôn bán. Tôi không buôn bán mà đang kiếm đường vượt biên. Cà Mau có lẽ lý tưởng cho tôi, mặc dù trong túi tiền bạc không quá hai chỉ vàng, tôi vẫn mong rằng một cơ may nào đó sẽ đến với mình sau những chuyến đi không thành.
Con tàu lừng lững xuôi nam, tôi ngồi một góc nhìn cảnh, nhìn trời mà tâm hồn không dấy lên được một xúc cảm nào trước cảnh vật. Có lẽ nỗi lo âu đã triệt tiêu mọi cảm quan về thiên nhiên. Trong tôi chỉ còn lại duy nhất một điều: làm sao để ra đi.
Người đàn bà bán cơm trên tàu có lẽ là người duy nhất nói chuyện với tôi. Với một giọng miền Nam ngọt xớt, chị hỏi han tôi đủ thứ chuyện trên đời. Tôi trả lời nhát gừng và cố tránh những câu hỏi về thời cuộc.
“Qua thấy em coi bộ buồn dữ. Bộ hồi đó có đi dạy học hả?” “Không. Em đi vẽ.” “Dậy là thợ dẽ hả? Mèng ơi, thợ dẽ giàu lắm đa, ở xóm qua có một ông thợ dẽ mà nuôi tới hai bà vợ lận.” “Em nghèo lắm chị ơi không được như vậy đâu.” “Đói bụng hông, ăn giùm qua dĩa cơm sườn nghen. Có tôm rim nè, ngon lắm.” “Dạ, chị cho em chút thôi, em không ăn hết đâu.” “Có bánh bò tráng miệng nữa nè, ông xã qua làm đó, ngon lắm.”
“Dạ, chị cho em một cái.”
Miếng giấy gói bánh bò đã quá cũ, vàng lên một màu nhang. Tôi liếc tờ giấy có vẻ thiếu vệ sinh đó với một tâm trạng e dè. Điều tôi biết chắc là trên tấm giấy vàng vọt đó có in một bài thơ.
Thơ, lúc này không gợi cho tôi một khái niệm nào cả, mặc dù trước đây tôi cũng võ vẽ đôi bài.
…
Người muốn trả lại người sân nắng cụ
vườn thanh xuân nhiều hạt mộng ươm mầm
mắt mênh mông chiều chưa gió một lần
tóc chưa rụng những cành me lá biếc...
Sắc và ngọt. Chữ nghĩa trau chuốt đầy ắp hình ảnh. Tò mò tôi hỏi chị bán cơm “Chị ơi, mấy tờ giấy này còn không” “Ôi hiếm gì” “Chị đưa em coi” “Nè, nhưng phải giữ cho qua, hết lá chuối rồi” “Dạ”.
...
Tôi ham hố nên gạt người vào cuộc
nhưng nhục nhằn ta khó thể làm thinh
vung tay gươm ta phạt trúng cổ mình
mắt không kịp ngoái theo đầu ta đã rụng
Tôi thật sự bị bài thơ mê hoặc. Bài thơ lẫn lộn trong đống giấy hỗn tạp. Tôi kiên nhẫn tìm từng tờ lần theo số trang bên dưới. Bài thơ lạc mất tựa nhưng còn lại tên tác giả: Du Tử Lê.
Suốt buổi chiều hôm đó, lạ lùng thay tôi quên hết hoàn cảnh của mình. Tôi chợt nhận ra đâu đó trong tiềm thức tiếng gọi thi ca trong tôi vẫn còn động đậy. Bài thơ nào có đá động gì tới chuyện vượt biên? Vậy mà nó có khả năng xoa dịu hồn tôi trong một thời gian dài.
…
đời đâu có khác chi một đường gươm vụng
tình không hơn một lần lầm lỡ trọn đời
nếu thương nhau, xin gắng bậm môi cười
dù máu có ố hoen hàm răng ngọc lựu...
Tôi không hề có một người yêu nào có được hàm răng ngọc lựu để bậm môi rướm máu. Nhưng dòng thơ gợi lên trong tôi một bi kịch, bi kịch muôn đời của những kẻ yêu nhau. Du Tử Lê đã mang kịch vào thơ. Tôi không lầm đâu. Cả bài thơ là một vở kịch dài, có bố cục, có phân cảnh và rất nhiều nhân vật. Ngoài hai nhân vật chính là “Người” và “Ta” còn nhiều nhân vật khác được nhân cách hóa một cách thần tình: Chim, Sông, Sân nắng cũ, Mùa xuân áo đỏ, Bướm và độc đáo nhất: Gươm.
Những thanh gươm đời đã từng cứa vào hồn tôi, tôi nhận chân rất rõ điều đó. Du Tử Lê đã không đi những lằn gươm xây xước, chàng đã tự phạt vào cổ, như cứu rỗi, đầu hàng.
Trên sóng nước, con tàu lặng lẽ đi. Tôi vẫn loay hoay trong óc bài thơ vừa đọc. Tiếng hò miền Nam như xa như gần tạo một cảm giác buồn thiu tê tái. Tôi nhẩm đọc lại câu đầu của bài thơ:
Người muốn trả lại người sân nắng cũ...
Hốt nhiên, tôi ngâm lớn, theo thể loại Sa Mạc. Lạ, câu thơ nghe ngọt ngào và đầy chất Nam Bộ... Cứ thế, một mạch, tôi hát cả bài theo điệu vọng cổ. Tuyệt nhiên không chút khó khăn. Giữa buổi chiều thật nhạt của miền Tây, tiếng ca tôi đã làm nhiều người tò mò, lắng nghe, đâu đó vài tiếng vỗ tay nổi lên làm tôi thêm phấn chấn. Một ngày trôi qua như thế. Đêm lại, tôi nghe hình như tiếng vọng cổ vẫn đâu đây, hờ hững...
Bài thơ như một viên ngọc lấp lánh trong hồn và từ đó đã trở thành bài vọng cổ theo tôi đến nhiều bữa họp mặt văn nghệ với bạn bè sau lần vượt biên không thành.
Cuối cùng nó cũng đến được Mỹ.
Một đêm hè tháng 8 năm 96, bài vọng cổ đó lại có dịp cất lên trong Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê được tổ chức tại Portland, Oregon. Người hát cũng là tôi. Có khác một điều, lần này tôi hát cho chính tác giả nghe. Người thơ không thể ngờ rằng thơ mà cũng phổ thành vọng cổ được. Sao không? Cái chất Nam Bộ ngồn ngộn trong thơ anh tự nó đã hình thành những giai điệu mà khi đọc lớn lên, bất cứ một người miền Nam nào cũng nhận ra được. Tôi muốn giữ bài-thơ-vọng-cổ này cho một mình mình, như một kỷ niệm, một dấu ấn trong đời. Tôi không muốn ai khác hát bài thơ này. Tôi sợ, người hát có thể làm tôi đau và bài thơ chảy máu...
KHUẤT KIM NGỮ
(tạp chí Sóng, Oregon, số tháng 8.97)