Giờ Điểm Danh Cuối Cùng, Của Những Cậu Học Trò Trên Sáu Mươi!?.
copyright by@ du tử lê/ hoàng sỹ, 2006.
GIỜ ĐIỂM DANH CUỐI CÙNG,
CỦA NHỮNG CẬU HỌC TRÒ TRÊN SÁU MƯƠI TUỔI!?!
tuyển tập tùy bút/ truyện ngắn du tử lê/ hoàng sỹ.
mẫu bìa: derek phạm.
trình bày: hà phương hoài, vương trùng dương.
ảnh chân dung tác giả: derek phạm, huy phương,
thái đắc nhã.
ảnh tư liệu: ngọc hoài phương.
phụ bản họa: cao bá minh. đinh cường. đỗ trung quân. nguyễn đình thuần.
nhà in: t&l printing
h.t. productions ấn hành lần thứ nhất-
california, usa, tháng 11 năm 2006.
tổng phát hành: tự lực bookstore: www.tuluc.com
du tử lê/ hoàng sỹ
GIỜ ĐIỂM DANH CUỐI CÙNG,
CỦA NHỮNG CẬU HỌC TRÒ TRÊN SÁU MƯƠI TUỔI!?!
tuyển tập tùy bút/ truyện ngắn.
H.T. productions, 2006.
DU TỬ LÊ,
photo by: thái đắc nhã, 2006.
Tùy bút trong tuyển tập này, gồm một số bài viết trước và,
sau thời gian tác giả bị bạo bệnh, hồi tháng 3 năm 2006.
Đó là một thứ bán hồi ký / semi-autobiography,
với những dữ kiện gần, xa ảnh hưởng tới cuộc đời tác giả.
GIỜ “ĐIỂM DANH” CUỐI CÙNG,
CỦA NHỮNG CẬU HỌC TRÒ TRÊN...60 TUỔI”!!!!
Tháng Bảy. Miền nam California đang trải qua những ngày nắng căng, nứt thịt da. Thời gian này, cũng là thời gian tôi đang trải qua những ngày chemo-therapy cháy nám không chỉ da mặt, (mà,) còn luôn cả phần thịt dưới mười đầu ngón tay.
Thời gian này, cũng là thời gian tôi thoi thóp, chấp chới giữa hai bờ sinh / tử. Bác sĩ nói, diễn tiến chứng bệnh ung thư của tôi, đang đi lần về phía ánh sáng. Những người thân nói, tôi không thể may mắn hơn, khi nhận được ơn phước từ đấng thiêng liêng. Ngài vớt tôi từ đáy vực nan y bệnh hoạn.
Lần nào, khi nghe, tôi cũng mỉm cười. Tôi cũng thấy vậy. Nhưng cũng chỉ riêng tôi, tự biết, những lúc một mình, tại sao tôi vẫn chảy nước mắt!
Tháng Bảy. Miền nam California đang căng rách thịt, da chống trả những trận cháy rừng hung hãn và, cơn sốt World Cup đã rút đi; như những đợt sóng thần hân hoan / thất vọng xa, lìa bờ cát. Thay vào đó là thiên tai, khủng bố và, chiến tranh đang đe dọa trở lại Trung Đông. Khi Do Thái cùng lúc, mở hai mặt trận ở Haza Strip, Palestine và Beirut, Lebanon; chỉ vì ba người lính của họ, bị dân quân hai nước này bắt cóc.
Một thống kê không chính thức cho rằng, mỗi ngày, thế giới có ít nhất vài ngàn người chết vì thiên tai, chiến tranh, tai nạn, đói kém và, bạo bệnh.
Tôi hiểu mọi đau đớn gây nên bởi chết chóc, đều không gì có thể thay thế. Tôi cũng hiểu, những mất mát gây nên bởi chia lìa tức tưởi, đôi khi còn đau đớn, tệ hại hơn cả chết chóc nữa!
Tháng Bảy. Miền nam California thu mình, thấp thỏm trước sự rình rập của những vụ khủng bố; một trận động đất lớn, có thể xắn quá nửa diện tích quận hạt Los Angeles tặng không cho Thái Bình Dương...Cùng lúc, nam California, cũng nghe ngóng, lắng chờ một cơn mưa lớn, sau hàng chục vụ cháy rừng với nhiều ngàn mẫu rừng phút chốc tro, than (và,) Thống Đốc tiểu California đã phải ban bố tình trạng khấn cấp ở những khu vực này.
Đó cũng là thời gian tôi lắng nghe mỗi phút, giây, những giọt nước mắt lặng lẽ, chảy, những lúc một mình, giữa bề bộn gối, chăn. Những giây phút một mình, với hồi quang ký ức. Những giây phút một mình, tôi nhai lại. Tôi gậm nhấm. Tôi hít thở từng kỷ niệm, từng sự việc, từng nơi chốn...
Có những sự kiện những tưởng đã qua đi, như sự quá vãng của một con người; nay, không những chúng trở lại (mà;) còn hăm hở sinh động, dữ dội đứng lên, như sự hồi tỉnh của một người đã chết, đòi lại những ngày, tháng bị chôn sống...
Tôi muốn nhắc tới chuyện gia đình đổ vỡ của bạn tôi, Nguyễn Quang Minh(Dê.) Những ngày còn trong bệnh viện, mỗi khi Bùi Vĩnh Hưng, Hoàng Sỹ vào thăm, tôi nhớ, tôi luôn hỏi về “tình hình Minh Dê...” - - Như thể mọi biến chuyển đời riêng của Minh, đều ảnh hưởng xa, gần tới tôi. Sự thực, hiển nhiên, không phải thế.
Nhưng dọc theo lộ trình khấp khểnh tai ương, đầm đìa oan, trái kia, mỗi chúng ta đều gặp không ít những “hiển nhiên” không cách gì hiểu nổi!!!
Những ngày nằm bệnh, nhớ bạn, lần đầu tiên, sau gần 7 năm, tôi có dịp đọc lại bài viết “Giờ ra chơi cuối cùng, của những cậu học trò 60 tuổi.” (*)
Tôi viết bài này tháng 12 năm 1998, sau khi tham dự dám cưới của Minh-Liên.
Một đám cưới đặc biệt. Một họp mặt ngậm ngùi của những người bạn học, sống sót, ở quê người, sau 44 năm rách nát thân / tâm; nhìn, nhận mặt nhau.
Bản chất nhút nhát, rụt rè, khiến tôi rất ngại gặp gỡ, tụ tập...Nhưng tôi không thể không biết ơn đám cưới của Nguyễn Quang Minh. Loại đám cưới, tôi nghĩ, sẽ không thể có lần thứ hai, như vậy.
Vì thế, khi khép lại bài viết ở dạng bán-hồi-ký của mình, tôi đã thậm xưng:
“...Trước khi chia tay, họ còn hân hoan, vô tư đến đau lòng, khi hò hẹn: Sẽ gặp lại nhau, 44 năm nữa...!”
Nếu bảy năm trước đây, khi viết “Giờ ra chơi cuối cùng, của những cậu học trò 60 tuổi,” in ra hơn 10 trang sách, chỉ trong một buổi, với biết bao cuống cuồng hân hoan trẻ dại...(Thì,) hôm nay, sau bảy năm, khi cố gắng trở dậy, ngồi vào bàn viết; để hoàn tất lời hứa viết một bài gì đó, cho bạn tôi, Nguyễn Hữu Khang, lại là một... “khổ nan!” Tôi đâu dè, việc này lại trở thành cực hình, tra tấn tinh thần tôi gần một tháng qua!
Cảm nhận khổ sai, ý thức bất lực trong tôi, không phải vì những tấm lưới sắt giới hạn mang tên ung thư, bủa chụp, vây khổn thể xác, tâm hồn, thần trí tôi, từ nhiều tháng qua. Dù hôm nay, tôi vẫn còn chấp chới sống giữa đôi bờ sinh / tử. Dù hôm nay, tôi vẫn còn thất thần / hoảng hốt nổi, chìm giữa nhớ / quên, mỗi khi ra khỏi những giấc ngủ ngắn. Những giấc ngủ ngắn bất kể đêm / ngày thường bôi, xóa ác mộng tôi, bằng những giọt nước mắt lặng lẽ...Nhưng tôi biết, sức nặng, sự trì, níu, trói buộc thân / tâm tôi không phải là những lượng thuốc chống ung thư ngày / đêm tuôn chảy vào thân thể tôi; hay những tia điện cực tím(?) đánh vào những đầu mối xuất phát chùm rễ ung thư (mà,) tôi nhận được hàng ngày ở phòng điều trị radiation, thành phố Fountain Valley.
Không. Sự bất lực thê thảm, nỗi buồn bã dao đâm, niềm tuyệt vọng đạn xé, bầy hầy tâm hồn, thân xác vì, tôi hiểu:
“Sẽ không bao giờ còn nữa, một giây, phút ra chơi nào, cho những cậu học trò 60 tuổi, như chúng tôi! Còn chăng, với chúng tôi, hôm nay, ngày tới, chỉ là “Giờ điểm danh, cuối cùng!”
Tôi hiểu, tất cả mọi ồn ào chói, gắt niềm vui, tất cả mọi la, hét bể phổi hạnh phúc, khi những người bạn học của tôi, gặp nhau, hôm qua hay ngày mai, chỉ tố cáo một cách ngậm ngùi sự chấm dứt một thời, một đời, chúng tôi, mà thôi.
Tôi hiểu, cách gì, những tấm mặt nạ vụng về, lòe loẹt niềm vui, của những cậu học trò trên 60 tuổi, như chúng tôi, cũng sẽ rớt xuống. Những mặt nạ tênh hênh niềm tuyệt vọng bẽ bàng khi chúng tôi chia tay, trở về chỗ nằm của riêng mình.
Tôi hiểu, cách gì, lực hồi quang thời niên thiếu của những cậu học trò trên 60 tuổi như chúng tôi, dẫu có tự lừa dối mình đến đâu, cũng sẽ nhận ra, khi buổi họp mặt, chấm dứt; lúc cuộc vui kéo lê, đã tàn; trên những ghế, bàn xô lệch, lẫn giữa đống ly, tách, bát, đĩa giấy là nỗi buồn ngổn ngang của mỗi cá nhân, mỗi cảnh đời, đợi chết.
Không biết bao lần, tôi đã đọc được những ngơ ngác, lạc lõng, tuổi già trong mắt Phạm Duy Ánh, Phạm Tuấn Bách, Nguyễn Ích Lân, Nguyễn Đức Thuần, Nguyễn Quang Minh, Ngô Gia Truy, Trịnh Tất Đắc, Trương Minh Triết, Nguyễn Trí Viễn, Vũ Thành An, Trương Trọng Trác, Trịnh Quốc Thông, Ngô Anh Tề, Phạm Hữu Quang, Phạm Văn Ân, Dương Quốc Dân, Nguyễn Trọng Miễn, Đào Quý Châu, Trần Quốc Bá, cùng biết bao bạn khác của tôi...Khi ngọn lửa hăm hở đi tới nơi hon,ï đã đìu hiu hơi ấm - - Khi đâu đó, trong những đôi mắt sụp / lở nắng, mưa của họ, là những đục lờ chua, xót, ngán ngẩm...
Lòng tôi càng muối xát hơn, khi trực nhớ rằng, một thời, ở một khía nào đó, họ từng là “thần tượng” của tôi. Trong số đó, có người từng ngẩng đầu, hiên ngang nổi trôi cùng mệnh nước. Trong số đó, có người rất gần, cận...Thượng Đế... Nhưng chẳng nhờ vậy, mà họ đuổi, xua được nỗi buồn; trốn thoát giờ “điểm danh cuối cùng,” đã tới...
Không biết bao lần, tôi đã đọc được những chùm bóng tối âm u, lênh đênh trong mắt Ngô Đình Ngân, Phạm Huy Trung, Vương Ngọc Quỳnh, Bùi Vĩnh Hưng, Nguyễn Ngọc Chấn, Hoàng Sỹ, Ngọc Hoài Phương, Nguyễn Thế Toàn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Đình Hùng, Văn Sơn Trường, Dương Thiệu Toản, Bùi Vi Thiện, Nguyễn Huy Lộc, Dương Quốc Thỉnh, Nguyễn Quang Túc, Nguyễn Huy Yên, Đặng Vũ Thám, Nguyễn Dũng, Trần Quốc Đông, Nguyễn Thọ Chấn, Võ Hùng Anh, Ông Ngọc Bảo, Đào Chí Hồng, Dương Kim Long, cùng biết bao bạn khác, của tôi...trong những họp mặt bất ngờ, hoặc những chiều, tối ngồi với nhau ồn ào hay lặng lẽ ở San Jose, Houston, Dallas, Virginia, Oregon, Oklahoma City, Montreal, Toronto, Sydney, Brisbane, Adelaide, Paris, Frankfurt...(và,) cũng không hiếm, những lần, ở ngay Orange County này...
Lòng tôi cành muối xát hơn, khi trực nhớ rằng, rất nhiều người, trong số họ, từng một thời huy hoắc...
Nhưng, tôi hiểu, cách gì, hôm nay, ngày mai, họ cũng chỉ là những cậu học trò, sau “giờ ra chơi cuối cùng,” đã phải vào lớp, chờ “Điểm danh.” Những lần “Điểm danh,” cũng... “cuối cùng!”
Nếu cách đây bảy năm, khi quá nửa số bàn trong tiệc cưới của Nguyễn Quang Minh (Dê,) bạn tôi, vang dội tiếng “mày / tao,” tiếng “Đan Mạch” rất hồn nhiên khí thế, bạo liệt trẻ thơ...mang lại cho tôi những đợt sóng kinh hoảng hạnh phúc, mềm sũng hân hoan, chấn động hồi tưởng bao nhiêu (thì,) hôm nay, tôi chỉ chực chảy nước mắt bấy nhiêu; khi Hoàng Sỹ cho biết, Nguyễn Quang Minh (Dê) đã chia tay K. L.
Minh đã lặng lẽ dạt, trôi về Gia Lâm, ngoại ô Hà Nội... Anh đang tìm quên, (hay đang chuẩn bị thắp sáng lại một lần nữa, những bó đuốc lửa ngọn tự tin, than hồng tuổi trẻ, nơi một trái nhà làm thêm, thuộc một căn nhà vốn đã mục nát!)
Với tôi, cách gì, cuối cùng, phần còn lại của đời bạn tôi, cũng chỉ là những ngày, tháng gập ghềnh áo cơm; lom đom nghĩa sống!
Nếu cách đây trên dưới bảy năm, trong bán-hồi-ký “Giờ ra chơi cuối cùng của những cậu học trò 60 tuổi,” tôi ca ngợi, tôi trân trọng K. L. bao nhiêu (thì,) hôm nay tôi cũng ngỡ ngàng chừng nấy; khi Bùi Vĩnh Hưng kể, Trần Tiến Tài ở Saint Louis, Missouri, tình cờ gặp K.L, chồng khác; KL mang bầu, đã gần ngày sinh...Hưng bảo, có thể, vì thế, Minh đã âm thầm hủy bỏ cuộc hẹn với bằng hữu ở miền nam Cali, sau mấy ngày lang thang tìm vợ cũ... Minh đổi vé. Anh bay thẳng về Hà Nội. Anh trở về cái trái nhà ở Gia Lâm, với người bạn gái mới của mình.
Tôi nhớ, khi nghe Hưng kể về K.L., tôi im lặng. Tôi nhớ người bạn chung một sân trường, cùng một lớp học. Tôi hình dung Minh, niên thiếu, thủ môn, Chu Văn An, năm mươi năm, trước.
Cúi xuống ly café Hưng mua cho, tôi chảy nước mắt.
Bây giờ, nhớ lại, buổi sáng với Hưng, tôi nghĩ, có dễ nhiều phần, tôi chảy nước mắt cho tôi(?) Và, cũng có dễ, chỉ riêng mình tôi hiểu, tại sao, tôi, những hạt lệ sắc, lắng, muộn màng, ấy.
Tôi nghĩ, sẽ không một ai biết rằng, ba ngày qua, tôi không chỉ muốn ngưng, mà còn có ý định xóa bỏ hẳn những đoạn tùy bút bạn mới đọc. Việc xóa bỏ một đoạn văn, một bài thơ, thậm chí một truyện ngắn, với tôi, không phải là chuyện hiếm hoi. Nhưng đó không phải là trường hợp này. Trường hợp của “Giờ điểm danh cuối cùng, của những cậu học tròø 60 tuổi.” Nó càng không phải là trường hợp này, khi Chủ Nhật, 16 tháng 7 mới đây, tôi còn gọi điện thoại cho Khang Nguyễn, hỏi ngày giờ từ trần của ba bạn học thời niên thiếu: Nguyễn Hữu Định, Tạ Đức Thiện, và Nguyễn Kim Tiền.
Tôi chọn Khang để hỏi vì, năm nay, Khang Nguyễn là trưởng ban tổ chức buổi họp mặt đánh dấu “50 Năm trường xưa, bạn cũ,” của chúng tôi. Tôi chọn Khang để hỏi, vì Khang Nguyễn cũng giữ vai trò chủ biên giai phẩm chủ đề “50 Năm trường xưa, bạn cũ.” Tôi cho Khang biết, tôi đã liên lạc được với chị Huấn / Trịnh Đình Thắng, cho Khang. Tôi cũng cho Khang biết, bài tôi viết gần xong. Tôi muốn cái bán-hồi-ký của tôi, chấm dứt bằng phần “điểm danh” những bạn học đã đi xa, từ nơi quê người. Tôi cho Khang biết, tôi muốn nhắc đến người còn lại - - Những người đàn bà cắn răng, bấm chân, một mình đi nốt phần đời còn lại - - Với tang chồng, trong lòng. Trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái, trên vai. Nỗ lực gìn giữ chính mình, trong tâm thức.
Tôi bảo Khang, tôi kính trọng vô cùng, các chị Uyên Na / Nguyễn Hữu Định; Thu Trần / Tạ Đức Thiện; Thiều Kim / Nguyễn Kim Tiền...
Tôi bảo Khang, ngày nào họ còn một mình, đi nốt phần đời còn lại, ngày ấy, chúng ta phải công khai bày tỏ lòng ngưỡng mộ, kính trọng ho - - Như chúng ta từng ngưỡng mộ, kính trọng những người mẹ sớm góa bụa của chúng ta, trong quá khứ. Chúng ta phải vinh danh họ, như thể, họ là niềm hãnh diện của chính chúng ta vậy.
Tôi nhớ, tối Chủ Nhật, 16 tháng 7, trong những lần gọi cho Khang Nguyễn, đôi lúc, tôi bị kích động mạnh mẽ bởi những ý tưởng, hình ảnh rạng rỡ về các chị Nguyễn Hữu Định, Tạ Đức Thiện, Nguyễn Kim Tiền, những người phụ nữ sẽ khép lại bài tùy bút của tôi và, từ đó, chính họ, sẽ cho cái tùy bút nhỏ bé này, một hơi thở, một nhịp đập, khác. Tôi nhớ, Khang hào hứng, phấn kích lắm, khi cho tôi tin về cái chết của Đinh Quốc Trực, một bạn học cũ của chúng tôi, từ trần hồi tháng 10 năm 2005, ở Houston, Texas - - Và, chị Thiên Hương / Đinh Quốc Trực, đã cho Khang hay, chị sẽ từ Houston, bay về Orange County, dự ngày kỷ niệm “50 Năm trường xưa, bạn cũ.”
Tôi cũng nhớ trước một vài đề nghị bất ngờ của tôi, Khang đã tiếp nhận một cách thận trọng. Tỉ như, đề nghị ban tổ chức nên gửi giấy mời (không thu tiền vé) tham dự buổi họp mặt của những người vợ bạn, nay đã thành góa phụ... Khang nói, Khang đồng ý, nhưng sẽ hỏi ý kiến khoảng 20 anh em (mà,) Khang đã mời họ họp vào chiều Chủ Nhật tới, tức Chủ Nhật 23 tháng 7. Khang giải thích, anh sợ các bạn bảo anh chuyên quyền, độc đoán...
Nhắc lại chuyện này, một loại behind the scenes, tôi chỉ muốn cho bạn thấy tư cách của Khang Nguyễn - - Một cựu giáo chức luôn sẵn nụ cười cởi mở, trẻ thơ khuôn mặt nhân hậu, với đôi chút rụt rè, lùi ra, cẩn trọng...Tôi hiểu, Khang không bao giờ muốn làm buồn lòng bạn, nhưng không vì thế mà phá, bỏ nguyên tắc.
Trong ghi nhận của tôi, Khang Nguyễn là loại đàn ông, không chỉ gương mẫu trong vai trò một người chồng, một người cha, (mà,) Khang Nguyễn còn là hình ảnh gương mẫu cho chúng tôi - - Bởi đa số chúng tôi, không có được những đức tính Khang có.
Đêm đó, tôi đi ngủ với cảm giác an lành, khi nghĩ rằng, ngày mai Thứ Hai, 17 tháng 7 tôi sẽ gửi tùy bút / hồi ký này, cho Khang.
Nhưng ngày mai, với tôi, đã là một ngày mai thảm kịch. Một ngày mai thất thần, hoảng loạn!
Bởi vì, vào lúc 4:30 chiều Thứ Hai, 17 tháng 7, tôi được tin Khang Nguyễn đã thình lình “đi xa!!!”
(“Đi xa,” hai chữ này tôi học được từ các bạn tôi, ở Saigòn - - Như Bùi Cung, như Nguyễn Khắc Nhượng, như Sâm Thương...khi họ báo cho tôi biết, sự ra đi vĩnh viễn của Văn Cao, Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Kim Tuấn, Tạ Tỵ...)
Tôi thích lắm, hai chữ “đi xa.” Chúng cho tôi cảm tưởng (hay tin tưởng) những người tôi quý, mến chỉ điên khùng nổi máu phiêu lưu, thình lình, bỏ hết mọi thứ, để đi đến một nơi rất xa. Một nơi chốn (mà,) không ai trong chúng ta, (những người còn lại,) có thể hình dung... Nhưng, bởi đó chỉ là một chuyến “đi xa,” nên cũng chắc chắn, có ngày họ sẽ “trở về.” “Đi” hay “về,” với tôi, trước sau chỉ là hai mặt của một đồng xu đời người ngắn ngủi!)
Hôm nay, lần đầu tiên, tôi chọn hai chữ đó, cho Khang Nguyễn!
Hôm nay, đã ba ngày sau cái giây phút kinh hoảng, ngỡ ngàng, khi T. xô cửa phòng, lạc giọng, báo tin :
“Anh Chấn nói, anh Khang chết rồi!”
Tôi nhớ, tôi vừa trở về từ nơi phòng chạy “radiation.” Tôi nhớ, cùng với Ngô Gia Truy, Trần Việt Chương, Vương Trùng Dương, Hoàng Sỹ, Nguyễn Ngọc Chấn...chúng tôi mới chia tay Khang Nguyễn lúc 1 giờ 30 tại nhà hàng Viễn Đông. Tôi nhớ, Khang Nguyễn còn nhắc tôi gửi bài cho Khang qua địa chỉ e-mail Khang viết trên tấm giấy napkin cho tôi, trước đó ít phút. Tôi nhớ trong bữa trưa, Nguyễn Ngọc Chấn và Khang Nguyễn thay nhau nói về những thành quả đạt được cho ngày họp mặt, chủ đề “50 Năm trường xưa, bạn cũ”õ... Tôi nghe họ hẹn nhau, 4:30 đi đặt vé máy bay trước, cho các thầy cô ở xa. Tôi nghe Chấn nói với Khang, đợi sau buổi họp ngày Chủ Nhật, 23 tháng 7, hãy đi gặp đại diện của các chị B3 để thu tiền hai bàn (mà,) các chị đã đồng ý đặt trước cho ngày họp mặt “50 Năm trường xưa, bạn cũ.” Tôi biết Khang rất hãnh diện với thành quả các chị B3 (gốc Trương Vương, có hai năm học ké với Chu Văn An chúng tôi, ở khu nhà phụ, sau lưng trường Pétrus Ký, 1955,) nhận lời tham dự buổi họp mặt với con số vượt trên mơ ước của Khang. (**)
Kể lại bữa trưa với Khang Nguyễn chỉ vài tiếng trước, tôi muốn nhấn mạnh: Tôi không tin những gì mới được thông báo! Làm sao tôi có thể tin rằng, chỉ ba giờ đồng hồ sau khi chia tay, Khang Nguyễn đã không còn nữa!!! Vì không tin, tôi hỏi lại T.
“Khang nào? Tại sao?...”
Vẫn lạc giọng, T. đáp ngập ngừng... (Dường T. cũng rất muốn không tin nơi tai mình:)
“Anh...Khang Nguyễn!!!”
Giữa lúc ấy, điện thoại lại reo. Hoàng Sỹ gọi:
“Thằng Khang chết rồi! Nó chết rồi...”
Sỹ khóc. Giọng nghẹn, uất. Cái nghẹn, uất mang ý nghĩa phản kháng một cách tuyệt vọng, của bạn tôi, người cựu tù nhân cải tạo, trên 60 tuổi; khiến tôi hiểu lập tức, sự thật. Nhưng, có thể cũng như Sỹ, cũng như những người bạn khác, khi hay tin “Khang Nguyễn chết,” tôi vẫn muốn từ chối tiếp nhận sự thật; bằng những câu hỏi, không còn cần thiết nữa, khi một người đã thực sự “đi xa.” Câu hỏi hoặc chất vấn nào, có đanh thép, hữu lý tới đâu, gửi cho thượng đế (thì,) ngài cũng sẽ như chúng ta, ngao ngán, lắc đầu, tự hỏi: tại sao, điều ấy!
Sỹ vẫn khóc. Nghẹn, uất. Cái nghẹn, uất của Sỹ cho tôi liên tưởng tới hình ảnh một đứa nhỏ, nổi điên, muốn đốt nhà, giết người...khi thình lình định mệnh giựt người thân yêu nhất của nó, khỏi tầm...Tôi hiểu, Sỹ không thể đau đớn, hoảng, loạn hơn:
“Nó chết rồi. Cách đây hơn tiếng. Ở nhà nó. Ở hồ bơi. Nó chết rồi! Ở nhà nó...”
Tôi nghĩ, nếu không chặn Sỹ lại, bằng những câu hỏi khác, (thì,) không biết bao lâu, Sỹ mới ngưng cái điệp khúc mê sảng: Nó chết rồi. Ở nhà nó. Ở hồ bơi...
Nửa tiếng sau, tôi và T. có mặt trước căn nhà số 10394 đường Morning Glory, Fountain Valley. Ngôi nhà nhiều lần tôi đã tới. Ngôi nhà nhiều lần quây quần với bạn hữu, tôi được anh, chị Khang Nguyễn xúc cho từng miếng sôi, ép ăn một miếng chả. Căn nha, gần đây, đôi lần, tôi ngồi, vừa nhâm nhi ly cà phê do chị Kim Huệ / Nguyễn Hữu Khang pha cho, vừa theo dõi những ván sập xám của các bạn...
Ngôi nhà quen thuộc ấy, khi chúng tôi đến, một số bạn như Triết, Chấn, Sỹ, Chương, Hòa...đã có mặt. Tôi hấp tấp hỏi các bạn “Khang đâu (?)” Bạn tôi đáp, “còn ở ngoài hồ!”.
“..Nhưng có tới hai sĩ quan ảnh sát canh xác. Họ không cho một ai, dù là vợ, con nạn nhân được tới gần cái xác chết. ‘Án binh bất động’ này, sẽ chỉ được giải tỏa sau khi nhân viên giảo nghiệm tử thi của chính phủ đến giảo nghiệm, cho phép cơ quan hữu trách di chuyển xác nạn nhân về trung tâm giảo nghiệm của quận hạt - - Nơi đây các chuyên viên giảo nghiệm sẽ làm việc, nhanh nhất là 24 tiếng đồng hồ...Nếu họ không tìm thấy một dấu hiệu đáng nghi ngờ nào, thì sau đó, nhân viên của nhà quàn liên hệ, sẽ được thông báo, chở xác về trình tẩm, liệm...Tất nhiên, gia đình nạn nhân cũng sẽ được thông báo, sớm nhất...” Một người bạn nào đó, dường như Chấn, giải thích.
Từ bên này tấm kính lớn ngăn cách phòng sinh hoạt gia đình và sân sau, nơi cái hồ tắm oan nghiệt chiếm gần hết diện tích chiếc sân; tôi, T. và Chương dán mắt, cố gắng kiếm tìm một chút gì liên quan tới thi thể Khang... Tôi không phát hiện được điều gì, ngoài tấm nylon màu vàng, nhỏ, phủ kín thân thể bạn tôi.
Chương tinh mắt hơn, khi chỉ cho tôi thấy hai cánh tay Khang Nguyễn thò ra, tênh hênh ngoài miếng nylon, như hai khúc gỗ nâu sậm - - Nếu một trong hai cánh tay, không nổi lên một đường gân, như vết cắt bầm, tím, dọc thớ thịt, (thì,) chưa chắc Chương đã nhận biết.
T. cũng khá hơn tôi, khi nhận ra đầu Khang Nguyễn trên nền xi măng và, lớp tóc đen sau gáy, rơi xuống nền gạch, hờ hững, xơ, cứng, như thể đó là một mớ râu bắp, hay những sợi rác cỏ, cây chứ không phải là tóc người.
T. chua xót, bất mãn đòi yêu cầu cảnh sát chí ít, cũng phải đặt Khang Nguyễn trên một băng ca, băng ghế hay, một tấm nệm mỏng... Nhưng, ai là người có thẩm quyền đáp ứng, giải quyết yêu cầu của T., lúc này?
Nhiệm vụ của những người cảnh sát, cả nam lẫn nữ, từ lúc được phái tới, là bảo vệ tối đa, sự nguyên vẹn hiện trường. Thậm chí họ còn không cho thân nhân được giữ chiếc Cell-phone của Khang. Họ cần kiểm soát tất cả những cú điện thoại gọi tới và gọi đi của Khang Nguyễn, trong mấy ngày qua... Không chịu nổi hình ảnh Khang bị bỏ nằm trên nền xi măng, như một con cá đợi xẻ thịt, tôi bỏ đi, trở lại sân trước.
Khi đó, dù đã gần 8 giờ tối, nhưng trời còn sáng. Mỗi lúc một có thêm những người bạn hay tin, hớt hơ, hớt hải tìm đến. Riêng tôi, bị một số bạn (điển hình như Triết và Chấn,) quyết liệt bắt tôi đi về.
Tôi nghĩ, họ không muốn ngay lúc này, có thêm một người bạn học khác của họ (là tôi,) “đi xa!”
Hôm nay, đã bốn ngày sau chuyến “đi xa” bất ngờ của Khang; tôi không ghi nhận được điều gì khác hơn ngoài chuyện Chủ Nhật 23 tháng 7 tới đây, thay vì là ngày họp của ban tổ chức theo sắp xếp của Khang, (thì,) nghiệt ngã thay, định mệnh lại biến ngày đó, thành ngày chúng tôi tới nhà quàn, nhìn mặt Khang lần cuối!!!!
Hôm nay, đã bốn ngày, sau cái chết của Khang, thay vì xóa bỏ cái tùy bút / hồi ký này, nghe lời T., tôi ngồi vào bàn máy. Ngồi vào bàn máy, nhưng tôi không biết phải tiếp tục bài viết của mình thế nào, ra sao?!? Tôi nghiệm thấy chữ, nghĩa, rất thường khi trở thành trơ trẽn, dị hợm trước tiếng cười nhạo báng, thớ lợ của phần số. Tôi nghiệm thấy, chữ, nghĩa, trước những chia, lìa tức tưởi, rất thường khi, trở thành những tên hề trâng tráo, bất nhân, vô sỉ...
Hiểu như vậy, cảm nghiệm được điều ấy, tôi thấy, nếu tôi phải nói với chị Kim Huệ / Nguyễn Hữu Khang một điều gì, trong lúc này thì đó sẽ là:
Thưa chị Kim Huệ / Nguyễn Hữu Khang, tôi hiểu rằng, bất cứ một lời an ủi ý nghĩa, hay ho, tốt đẹp nào, trong lúc này, cũng sẽ chỉ là những lời vô nghĩa, thậm chí giả dối... trước sự mất mát, trước nỗi đau vượt xa, quá xa sức chịu đựng của một con người.
Tôi cũng biết, những ngày tới, cách gì, ngôi nhà ở đường Morning Glory của chị và các cháu, cũng sẽ thưa thớt dần, thăm viếng. Điều đó cũng đã từng xẩy ra với ngôi nhà ở đường Midwood Lane, Anaheim của chị Uyên Na - - Ngôi nhà ở đường Ramone, Santa Ana, của chị Thu Trần - - Ngôi nhà ở đường Potomac, Irvine của chị Thiều Kim - - Hay ngôi nhà ở đường Memorial Dr., ở Houston, của chị Thiên Hương...Khi các anh Nguyễn Hữu Định, Tạ Đức Thiện, Nguyễn Kim Tiền, Đinh Quốc Trực vĩnh viễn không còn nữa.
Sự cay nghiệt của đời sống, tính bất nhân của vật chất, sự tởm lợm (phải gượng nuốt xuống) của thực tế...khiến bằng hữu (luôn cả bà con, anh em, họ hàng,) không thể tiếp tục viếng thăm chị và các cháu, như những ngày anh Khang mới “đi xa.” Nhưng sự thưa vắng những lui tới kia, theo tôi, không có nghĩa mọi người đã quên anh, quên chị.
Không. Tôi biết rõ như vậy. Không phải đâu, thưa chị Kim Huệ. Bởi vì, cũng như các anh Định, Thiện, Tiền, Trực..., anh Khang với nụ cười trẻ thơ, nhân hậu, anh Khang với nhân cách gương sáng như vậy, sẽ không chỉ sống mãi trong chị và, các cháu (mà,) anh ấy cũng sẽ sống mãi trong chúng tôi... Tới ngày chúng tôi cũng sẽ lần lượt theo anh, đi xa. Và, chị, ngay chị, thưa chị Kim Huệ, rồi chị cũng sẽ “đi xa.” Lẽ vô thường vạn vật.
Riêng Chủ Nhật này, khi đến viếng thăm anh lần chót, ở Peek Family Murtuary, sau khi thắp cho anh nén nhang, trước khi ra về, (dù cho định mệnh có ném vào mặt tôi chuỗi cười thớ lợ nhạo báng thì,) tôi cũng vẫn xin được nói với chị rằng:
“Thưa chị Kim Huệ, chị hãy hãnh diện, có một người chồng, như Nguyễn Hữu Khang. Bởi vì, tập thể của chúng ta nơi quê người, không có nhiều lắm đâu, những con người, những nhân cách, như Khang Nguyễn.”
(July 20-06.)
-------------------------------------------------------------
(*) Đọc “Tôi, ấu thơ và, mẹ,” HT Productions, California, USA, ấn hành, Tháng Hai, 2000; nhà sách Văn Nghệ tổng phát hành.
(**) Nhà thơ Ngọc Hoài Phương cho biết, lớp B3 (nữ sinh Trưng Vương) sau hai năm Thất, Lục, học nhờ Chu Văn An, tới năm đệ Ngũ, được đưa về trường Gia Long và; trở thành nữ sinh Gia Long từ đó.
ĐÁM TÁNG GIỮA HƯ VÔ,
Tôi không biết phải giới thiệu với bạn về họ ra sao, cách nào; khi mà chính tôi cũng chỉ mới thấy họ. Đó là lúc ở đường chân trời chỉ còn một vài vệt đỏ yếu, rớt; giống như những hơi thở hắt, cuối cùng, của mặt trời sau khi bị nhận nước. Tôi cũng không biết họ ở đâu tới, dù bãi biển không dài lắm. Nó được giới hạn bởi một doi đá lởm chởm đìu hiu và; vách núi dựng đứng gan, ruột.
Lúc họ sắp sửa vượt qua tôi, thì, người đàn ông dừng bước. Ông chỉ con chim biển cô đơn, tự do sót lại trên bầu trời. Cô gái cũng dừng bước. Con chim biển dường cũng ngừng bay. Có thể nó đang nhìn xuống hai sinh vật (mà,) nó cho là cũng lạc lõng như nó. Hoặc giả, nó đã nhập vào họ, cách nào đó.
Người đàn ông nói:
“Em nhìn kìa. Có phải con chim biển ngừng bay vì sức nặng của cả bầu trời, lẫn nỗi âu lo thất lạc quá tải trên đôi cánh nó?”
Cô gái níu tay người ông, ngước mặt. Giây lát, cô đáp, tựa cho mình một câu hỏi khác:
“Hay vì sự có mặt của chúng ta? Em nghĩ, có thể nó sẽ vui lắm, nếu biết có thêm chúng ta, cũng không biết về đâu đêm nay?”
Cô gái mỉm cười (nụ cười rạn, vỡ trẻ thơ,) như nỗ lực tự chế giễu sự bi thảm thái quá của mình.
Người đàn ông vòng tay ôm cô gái. Ông làm như không thấy tôi; hoặc có thấy, thì tôi cũng chỉ như chiếc bóng không in của một cánh chim nghi hoặc. Ông nhìn sâu gương mặt cô khá lâu, trước khi hỏi bằng giọng nói pha tiếng lục lạc:
“Em không định giết chết buổi tối hiếm hoi của chúng ta đấy chứ?”
“Không. Trái lại. Anh ạ.” Cô gái nghiêm nghị.
“Em nhớ, anh từng nói với em rằng, đám mây nào rồi cũng trôi đi. Trận bão nào rồi cũng phải chấm dứt. Tự thân nó phải hoàn tất chu kỳ sinh, trụ, hoại, diệt...”
“Ô, em quên đấy. Chính em mới là người thường xuyên nhắc nhở anh, những điều tương tự, như thế.”
“Vâng. Cứ cho là vậy đi. Nhưng cách gì thì đêm nay rồi sẽ qua. Mỗi chúng ta sẽ lại tan tác theo những cơn bão của riêng mình. Chúng ta luôn bắt đầu. Theo em, đó là ý nghĩa đáng kể và, cũng tồi tệ nhất của thời gian...”
“Từ từ em. Anh nghĩ giá trị của thời gian là hiện tại. Hạnh phúc như niết bàn, không hằng cửu và; đau khổ, như địa ngục, không bất biến. Chẳng qua, chúng ta ưa gắn nhãn cho từng sự việc...”
Người con gái cướp lời:
“Nhưng anh cũng đừng quên, mây không phải là đời người và, mưa không hề là nước mắt.”
“Anh biết. Nhưng em chẳng thể có được cho mình một cách nào khác? Thí dụ, chậm, hoãn đôi ngày?!!!...”
Người đàn ông chuyển hướng câu chuyện(?) Cô gái hiểu:
“Em còn muốn hơn thế nữa chứ anh. Nhưng không thể anh ạ. Chuyến bay sẽ đem mọi người tới đây vào lúc năm giờ chiều mai...”
Người con gái nín lặng, như để điều chỉnh hơi thở bị tắc, nghẹn. Hoặc giả, cô cần một khoảng lặng, trước khi nói tiếp:
“Chỉ một điều còn thuộc về em là sự tan biến đi, chính mình. Tiếc thay, đó lại là điều chẳng ai làm được...”
“Ngày mai. Ngày mai. Ngày mai...”
Người đàn ông nói lầm thầm, như đọc thần chú, hoặc cầu nguyện. Ông hy vọng phép lạ sẽ xẩy ra nhờ sự xăm soi ngược, xuôi hai con chữ này?
Cô gái úp mặt vào ngực người đàn ông. Tựa thình lình cô bị gió rạch những đường buốt giá trên thân thể mình.
Bằng giọng nói mang theo mùi hơi quen thuộc, ủ, ẩm nơi lớp vải áo của người đàn ông, cô gái nói chậm, như chia đều nỗi buồn, cho từng tiếng: “Thôi anh. Đừng nhắc nữa, ngày mai.”
.
Thưa bạn, tôi không biết phải nói với bạn thế nào! Bạn có thể kết luận, họ có phần...“hơi bị tửng.” Riêng tôi, tôi lại thấy: Họ, cánh chim, biển, đêm, bầu trời, (luôn cả tôi,) không phải là những phần tách rời mà, chỉ một.
Dù bạn có phát hiện tôi mới là người...“hơi bị tửng,” thì tôi cũng chẳng mắc cỡ gì (mà,) không thú nhận rằng, tôi thấy tôi chính là đôi tình nhân kia. (Nó cũng giống như những lần coi phim cao bồi miền viễn tây...tôi luôn thấy tôi là nhân vật chính: Phi ngựa như gió. Bắn súng như để. Tài tình như...thánh.)
Do đó, kể từ lúc này, xin bạn hiểu, câu chuyện được kể tiếp, không bởi mình tôi. Nó còn được kể bởi bất cứ một thành phần nào, hợp thành cái một, ấy.
.
Người đàn ông khoác tay qua vai cô gái. Họ đi tiếp về phía núi. Khoảng cách không xa lắm; nên, hoàng hôn dù đang thu nhỏ hình hài trước khi đêm tới, người ta vẫn có thể nhìn thấy những thân cây chới với đâm ngang, từ vách đá. Càng xa vách đá, những cành lá càng bối rối chúi mũi xuống mặt biển...Bạn sẽ không sai lắm đâu, nếu có cho rằng, phải cố gắng, tài ba lắm, chúng mới gánh nổi một đầu núi và, bầu trời, đầu kia.
Sự hiện diện muộn màng, lạc lõng của cặp tình nhân dường trở thành điểm thu hút cảnh, vật. Ngay những con dã tràng nhút nhát là thế, cũng ngưng xe cát, hoặc chết trân trên miệng hang, theo dõi họ.
Như những con sóng tuy chuyển động không ngừng, nhưng vẫn có những giây phút lặng thinh riêng; cặp tình nhân thỉnh thoảng lại dừng bước. Họ quay qua ôm, hôn và, nhìn nhau.
Những lúc như thế, cô gái tuồng không phân biệt được đâu là biển sâu? Đâu là bờ cát? Có thể cô thấy cô vừa là biển sâu (để chứa được tình yêu của người đàn ông;) vừa là bờ cát (để tình yêu người đàn ông là những con sóng tham lam liếm ngọt từng tấc thịt da cô.)
.
Cung cách, cử chỉ của họ, cho thấy họ hạnh phúc và, bất an. Nhưng bất an, có dễ đã chiếm phần hơn; dù cho vòng tay, nụ hôn thường là những viên thuốc an thần hiệu nghiệm.
Không cần ai chỉ vẽ, họ hiểu, họ hưởng nhận được ân sủng hào phóng của tình yêu, cùng lúc với nỗi sợ hãi trong đôi tay hàm hồ của ý thức bất lực trước tương lai. Mặt khác, họ cũng là những con tin tội nghiệp của hào quang sụp, lở quá khứ. Tuy nhiên, khi họ nhìn nhau, thì cái nhìn là một.
Cái nhìn vốn một kia, vài giây thôi, nhưng, thưa bạn, với tôi (cũng có thể với cả những con dã tràng,) là cái nhìn xuyên suốt thân, tâm; thấu suốt không gian, hư ảnh. Nó không phải là cái nhìn theo cách nói văn chương, kiểu cách của Saint Exupéry (đã thành một trang sức súng sính của nhiều người,) là...nhìn về một phía...Nó cũng không phải là cách nhìn của những kẻ kề cận bên nhau (mà.) một đời vẫn không hề thấy nhau. Nó cũng chẳng phải là cái nhìn mang ý nghĩa kỷ niệm mai sau; sẽ được lưu trữ dài lâu trong ký ức (bảo tàng viện của những sự, vật khô, chết.) Cái nhìn nhân gian không thể được. Nó là sự sống, một kiếp - - Phút lơ đễnh, sểnh tay, của định mệnh - - Hay, giọt lệ cắn đôi của những kẻ yêu nhau, khốn khó.)
.
Đó là lúc thủy triều lặng lẽ lăn đêm vào vụng biển. Sẽ chẳng một ai nhìn thấy gì, nếu không có dẫy đèn cao, gập mình uốn theo đường viền hè phố và; ánh sáng chói chang của những tòa building hãnh tiến, xác định sự hiện diện lạnh tanh nhấp, nhổm của chúng. Dù vậy, ánh sáng cũng chỉ vói tay khỏi dãy hàng quán được chừng đôi ba sải; nếu không có vầng trăng thượng tuần mạ một lớp ánh sáng lụa vàng lên sóng, cát và, gió.
Đó là lúc cặp tình nhân đã tới gần hơn vách núi. Nơi những chiếc thuyền gỗ, mục, lủng đáy; nằm nghiêng, phanh bụng hướng về biển. Từ xa, nhác trông, bạn sẽ thấy chúng giống như những miệng phễu lớn, sẵn sàng lọc gió, cát từ muôn trùng thổi tới. Chúng cũng đón nhận những tiếng rì rầm rất khẽ, tựa lời than vãn ngờ nghệch gửi cho thượng đế của biết bao sinh linh chứa trong từng giọt nước, những đêm biển lặng. Những kẻ sinh thời không hề sống. Họ hồ hởi đặt cược (hay khoán trắng?) trọn cuộc đời cho đấng thần linh.
Thưa bạn, vấn đề theo tôi, không nằm nơi: Phải chăng, họ đã trả một giá quá đắt cho niềm tin mắc mỏ nông nổi; hoặc sự quay lưng của thượng đế. Nó nằm nơi, khi chết, họ lại đổ vấy cho ông tất cả mọi điều!!! Những điều thượng đế chẳng những không hứa hẹn, mà còn không hề hay biết nữa!?!
Cũng từ những lầm lẫn khởi đầu của một bản hợp đồng không người ký, đôi khi, người ta nghe được tiếng hát tự những chiếc thuyền gỗ mục. Tất nhiên, chúng hát theo bản bài và, cách riêng của chúng. Nên, dù giỏi âm nhạc đến đâu, bạn cũng không thể ghi lại, hoặc giải mã được những ca khúc đồng vọng hư vô, ấy.
Cô gái chủ động bước về phía tiếng hát.
Họ chọn chỗ hai mũi thuyền giao nhau, như một hang động lộ thiên, ít ánh sáng, để ngồi. Có một điều gì giống như sự chết, cột, buộc họ, với nhau.
.
Gió, sóng biển tiếp tục gửi những tiếng rì rầm rất khẽ, tựa lời than van ngờ nghệch cho những chiếc thuyền gỗ, mục, lủng đáy. Khác chăng, bên cạnh những chiếc phễu lớn, giờ đây, còn có thêm hai sinh linh. Hai sinh linh không nơi để về. Hai sinh linh tìm tới biển, không để...lọc gió, cát; mà, để nhận thêm những lượng hơi nước bất an vào tâm thức vốn âm u, treo đầy thạch nhũ, bất trắc.
Người đàn ông kéo cô gái nằm xuống cát. Trên cao, những vì sao nhỏ, chấp chới như những ý tưởng hiện, biến không ngừng trong tâm họ.
Chẳng biết có phải sự vô tình liếc nhìn đồng hồ của người đàn ông, khiến cô gái ném mình trở lại vực sâu, ám ảnh? Cô nói:
“Khi mới yêu anh, em thật ngu đần, khi nghĩ, chẳng có một điều gì thuộc về em, trừ thời gian...”
“Anh hiểu. Em dư nghị lực và kiên nhẫn. Nhưng...”
“Vâng. Nhưng càng lúc em càng hiểu ra, thời gian chính là chiếc xẻng xúc đất khổng lồ, êm ái, chôn nông mọi hy vọng.”
Cô gái ngập ngừng, nhìn quanh, như sợ có người rình nghe, trước khi tiếp:
“Không biết em có phạm tội chăng(?) Khi em rất muốn nói rằng, nếu có một điều gì ông trời để tuột khỏi tay ông, thì đó chính là ngày mai, vậy.” “Có thể,” người đàn ông thở ra.
Ông chống tay, nằm nghiêng, đăm đăm nhìn khuôn mặt như trái táo chín, thơm của cô gái, có dấu hiệu hư, nát ở một số nơi mà, ông không thể lóc, bỏ. Ông cúi xuống, trân trọng hôn lên những nơi chốn ấy. Cô gái nhắm mắt. Cô tận hưởng yêu thương hay, bất hạnh?
“Nhưng cũng có thể vì chúng ta luôn đinh ninh rằng, chỉ tương lai mới đáng kể. Trong khi sự thực, tương lai cũng như quá khứ sẽ vô nghĩa, nếu chúng ta không có hiện tại,” người đàn ông nói tiếp.
“Chỉ hiện tại mới đem lại cho khu rừng quá khứ những cây, cành kỷ niệm vạm vỡ và; tương lai, những hạt mầm khỏe mạnh... Như tình yêu, có hay không, chỉ trong phút này. Hiện tại. Ngay bây giờ. Đừng để cái tâm phỉnh gạt, cái tâm hớn hở van xin thần linh ban, phát cho chúng ta mọi điều, trong kiếp khác...”
(Càng nói, giọng người đàn ông càng thêm phấn, kích. Ông được dẫn dắt bởi nhu cầu trấn an người con gái? Ông trở thành lưu loát một cách bất ngờ, nhờ sự trợ lực của những sinh linh ngờ nghệch, oan thác?)
Nếu cô gái không lên tiếng, chắc ông còn nói nữa.
(Tôi e, nhiều phần, chính ông cũng chẳng biết phải ngừng chỗ nào!?!)
Cô gái hỏi:
“Nói như anh, hóa ra hạnh phúc hay khổ đau cũng chỉ là trò chơi cút bắt của cái tâm?”
“Anh nghĩ là như vậy,” giọng người đàn ông dịu lại, như vừa ra khỏi cơn say sóng, dù vẫn còn ngầy ngật.
“Vậy không hề có cái gọi là hạnh phúc / khổ đau?”
“Không hề. Nếu có, thì nó lại không là hạnh phúc / khổ đau.”
“Em không hiểu.”
Cô gái nhỏm dậy. Cô nhìn người đàn ông xa lạ, chưa từng:
“Nó là gì, anh?”
“Là tâm phẳng lặng.”
“Như...?”
“Bầu trời. Thinh không. Ta thấy mây cùng khắp bầu trời. Nhưng sự thực mây đang trôi qua. Và bầu trời không hề giữ lại chúng...”
“Nếu có, chỉ là ngay phút này?”
“Đúng vậy. Anh muốn nói, là hiện tại. Phút này.”
“Tức thì?”
“Phải. Tức thì. Ngay tại đây.”
“Ngay tại đây? Tức thì?”
“Như bệnh hoạn, tuổi già, sự chết...chẳng một phút, giây nào trễ hẹn với chúng ta...”
“Tức thì? Ngay tại đây?”
Người con gái lập lại, dường chỉ để tăng thêm cường độ đồng tình. Một đồng tình bất chợt, khiến cô hân hoan đến nhói, buốt.
Cô gái cầm tay người đàn ông đặt lên ngực mình.
Không riêng những ngón tay của người đàn ông, ngay cảnh, vật cũng nghe được nhịp chảy dồn dập của những lượng máu đất, trời rần rật, chuyển.
Họ rơi xuống cát. Rơi xuống hiện tại. Trần truồng. Tức thì. Tại đó.
.
Ở một nơi chẳng mảy may liên hệ tới biển, bãi cát, chim, dã tràng, trăng, thuyền mục và, tiếng hát đồng vọng hư vô...cô gái tỉnh giấc.
Cô tự hỏi, phải cô vừa ra khỏi giấc mơ; hay cô đã mang biển, bãi cát, chim, dã tràng, trăng, thuyền mục và, luôn cả tiếng hát...về căn phòng của mình?
.
Người con gái ngồi, tì tay mép giường. Cô thả chân xuống sàn, gạch.
bờ kè và, bờ, kè,
Con hẻm nhỏ, ngắn, đủ rộng cho xe hơi vào, ra và; buổi chiều tìm về, đậu lại, nhẩn nha thả những hạt bóng tối xuống ngôi quán vắng, lặng, qua những cái rây bột vô hình của nó. Từ sân thượng, lầu hai, chông chênh những trận mưa chiều, bạn có thể thấy một phần thành phố với những tàn cây cổ thụ như lùn đi bởi đám cao ốc xập sình, đang xây cất. Sức sống hực, hực như những ngọn đèn nghìn nến, dường phựt, tắt; khi bạn đã có được cho mình một chỗ ngồi, đâu đó, trên / dưới trong ngôi quán nép mình đáy hẻm kia. Ở đó, tôi được Dân giới thiệu Dã.
Tôi không hiểu điều gì, (nghiệp / duyên nào) khiến tôi thấy Dã khô, cháy hoang dại, miểng vỡ tiếng cười (mà) vẫn nhấp nhô, ẩn, khuất lênh khênh ưu uất; như một mảnh đời thất-lạc-tôi, xưa. Cảm giác địa chấn có với Dã, cũng hệt như lần đầu, khi tôi gặp Trân và, Dân (những mảnh đời thật-lạc-tôi, mất.) Chúng là mặt khác của một phiên bản, mang tên tuổi trẻ.
Nếu Dã thu hút sự chú ý của tôi, như một cảnh báo nghiệt ngã về cơn bão đang cuộn mình, lao tới (thì;) Trân và Dân lại cho tôi, năm, tháng tuổi trẻ rụt rè, cố thủ trong những căn hầm mặc cảm, chông chênh. Từ những căn hầm mặc cảm ấy, tiếng dế hoang đàng, lên gân, phóng những tín hiệu tìm bạn, ngày vui, vào khoảng không gian tưởng tượng, run rẩy xiết bao niềm bí mật, khao khát và, sợ hãi,
Khác với Dã, Trân và Dân, còn cho tôi cảm giác êm ả của những sườn đồi biếc thơ, thoải, dốc. Dù tôi không thể quả quyết (với bạn rằng,) cuối dốc là suối khô hay vực tối. Nhưng hề chi, phải không? Một khi, tôi có trở mặt cách nào (thì,) đó cũng vẫn là những mảnh đời thất-lạc-tôi, xưa.
Đó là những năm tháng tuổi thơ tôi, xanh rớt quạnh hiu, nhớt nhợt vắng, lặng với bàn tay tật nguyền và; những người phụ nữ vây quanh, cũng vắng, lặng, cũng thất thường, tật nguyền chiếc bóng.
Đó là những năm tháng thiếu niên tôi, không đủ liều lĩnh đập nát đời mình, như những lần anh Du tôi, nổi điên, đập phá đồ đạc, trước khi bỏ lại mẹ tôi rũ rượi tóc và, nước mắt trên chiếc phản gụ, vân bóng dấu vết thời gian.
Đó là những năm tháng trường thành tôi, trong bóng tối những căn hầm mặc cảm chông chênh ẩn, nấp. Những năm tháng tôi sống giữa hai cực đối đãi, quyết liệt. Nhiều lúc tôi thấy mình lớn, cao như...núi... Nhưng thường hơn, tôi thấy mình nhỏ nhoi, xanh rớt đìu hiu, nhớt nhợt vắng, lặng.
Phải chăng, từ đấy, tôi đã nhìn Dã, Trân, Dân, những người bạn trẻ trong ngôi quán nép, im đáy ngõ kia...như những phần đời tôi đã!?!
Tôi không biết. Tôi thực sự không hiểu. Mà, thưa bạn, theo tôi, mỗi cuộc đời đều được làm thành bởi tổng số những điều không thể hiểu; thì, thêm một điều không hiểu nữa, liệu có nên nỗi than phiền? Đương nhiên là không! Vâng bạn, tôi nghe.
Tôi cũng thực sự không hiểu, tại sao tôi lại muốn viết về Dã, về Trân, Dân và các bạn của họ, lúc này; mà không là anh Du, tôi mới gặp lại.
Anh Du là người anh thứ hai, trong số bốn anh chị em của tôi, sót lại. Anh Du, thanh niên, Hà Nội, những năm đầu thập niên 50. Anh Du, của một Hà Nội, phong trào, sưu tập tờ program của những phim được chiếu; như những nhà sưu tập tem, trân trọng với những con tem hiếm, của họ. Anh Du, của âm nhạc. Anh Du, của những ngày loạn lạc, (mãi gần đây tôi mới biết,) 13, 14 tuổi thôi, anh đã lãnh trọng trách đưa người chị dâu cả của gia đình chúng tôi, từ Khu Tư về vùng tề, chữa bệnh. Sau đó, anh lại chuyển giao “món hàng” chị tôi, từ vùng tề, về Khu Tư cho anh cả tôi, những ngày chiến tranh Việt-Pháp khốc liệt nhất. Nay, anh Du tôi, như người rừng, sống trong một túp lều làm thành bởi những myến cạc tông, giấy báo, lon nước...người ta vứt đi, bên bờ một con kênh, Rạch Giá. Tôi không nghĩ anh tôi sẽ được sống thêm nhiều năm, dù thần chết có chểnh mảng cách mấy, với riêng anh.
Tôi cũng thực sự không hiểu, tại sao tôi lại muốn viết về Dã, về Trân, Dân và các bạn của họ, trong lúc này; mà không phải là chị Uyển? Chị vừa là dâu cả, vừa là người mẹ thứ hai của tôi? Tôi biết chị tôi mới được nhà thương trả về...Với hồ hỡi...sảng, rằng sẽ còn sống, tiếp.
Chị Uyển, cái tên chẳng những tôi không được phép gọi - - Mà, nếu tôi có gọi; thì nó (có thể cũng) đã trở nên xa lạ với chính chị, kể từ ngày anh tôi bị máy bay Pháp bắn chết trưa mồng ba Tết, năm 1950, tại Nho Quan! Sau năm 1954, chị đã đi thêm bước nữa.
Tuy nhiên, dù tôi có bị các anh, các chị cảnh cáo, yêu cầu, kêu gọi ở tôi sự hiểu biết, tế nhị tối thiểu, thì tôi vẫn không thể thay thế cách gọi chị bằng một tên nào khác - - Thí dụ, chị Oanh, nhũ danh của chị. Bởi vì, sau mẹ tôi, chị Uyển là bóng rợp lớn nhất, suốt một tuổi thơ cháy, đen lủi thủi, đời tôi. Tôi nhớ, những mùa hè Hà Nội, gió Lào(?) đã đặt giữa căn phòng của chúng tôi ở đường Triệu Việt Vương, những chiếc lò lửa điên tiết hơi nóng gùn ghè...Tôi nhớ, đêm hè, tôi được đặt nằm giữa hai người mẹ. Họ thay không ngưng tay, chiếc quạt nan, cho tôi gió mát - - Trong lúc tôi mặc sức...sờ ti cả hai bà mẹ! Tôi nhớ mùa tựu trường đầu tiên của chị Băng và tôi, Hà Nội, trường Hàng Vôi, chị Uyển dẫn chúng tôi đi học bằng cyclo. Chị dắt tay tôi vào tận chỗ ngồi, sau khi cẩn thận giới thiệu tôi với thầy Niên, khi đó, là hiệu trưởng. Tôi nhớ những mùa đông Hà Nội, chị Uyển tôi, dạy thật sớm, đun ấm nước khổng lồ, đổ vào thau nước lạnh, khoắng khoắng... trước khi thức tôi dạy, rửa mặt cho tôi... Và, hôm nay, chị Uyển tôi, đang nằm bệnh ở chung cư Phú Lâm 2, Saigòn...
Ô, vậy mà, tôi không hiểu, nghiệp / duyên nào, khiến tôi muốn viết về Dã, Trân, Dân và các bạn của họ?
Phải chăng, trong cảm nhận của tôi, họ là những mảnh đời thất-lạc-tôi xưa? Nếu tôi không viết ngay, không viết gấp, có thể chúng sẽ lại ra đi, lại bốc hơi và, tôi sẽ lại thất-lạc-tôi, như đã! Còn chuyện anh Du, chị Uyển tôi ư? Cứ thư thả, vội gì, rồi ra, ngày rộng tháng dài...
Bạn cho tôi chủ quan quá chăng? Có thể lắm. Sống đến tuổi này, tôi hiểu, chẳng chuyện gì không thể xẩy ra. Ngay việc, những người bạn trẻ của tôi, có thể sặc sụa / cười khi họ đọc được những cảm nghĩ của tôi, một “ông già,” về họ! Thì đã sao, phải không? Phát biểu buồn / vui là quyền tối thiểu của mỗi con người kia mà! Nhưng tôi cho rằng, sẽ không ai nỡ nổi giận, bực dọc khi nghe tôi nói ra những cảm xúc chân thật của mình. Tôi cho thật là tử tế, thật là đáng kể, nếu ta nói được với nhau những điều chân thật; bằng một giọng ôn tồn hoặc tự chế nào đó. Nếu họ, những người trẻ, có cười (sặc sụa,) thì, cũng tốt thôi! Đó cũng là những phản ứng chân thật, của họ.
Nhưng lời cảnh cáo của bạn cũng có phần hữu lý. Hữu lý ở chỗ, có thể tôi đã lố bịch khi nghĩ rằng anh, chị tôi sẽ còn ở được với cuộc đời này nhiều năm, nữa. Có thể tôi cũng đã lố bịch khi nghĩ, tôi sẽ còn ở được với cuộc đời này, ít gì, cũng ngang bằng thời gian của anh, chị tôi. Nhưng, nếu tôi có đi xa sớm hơn anh Du hay chị Uyển, thì cũng được thôi.
Tôi hiểu, đời sống chẳng hứa hẹn chắc chắn điều gì, với ai! Nên, ta hãy tiếp tục câu chuyện, để nó khỏi trễ chuyến tàu thời gian đã dành cho nó. Nào, ta tiếp tục...)
2.
Không biết chiếc cầu bắc qua con kênh trải qua bao đợt trùng tu? Với tôi, ở lần trở lại này, rõ ràng là nó mới. Cũng rất mới, với tôi, khi người ta xây cho nó, hai bờ kè xi măng. Có điều mực nước quá thấp. Nếu nó không quánh đặc bùn thì tôi đã có thể thấy được những gì con kênh còn giữ lại nơi đáy nó.
Đó là lúc mười giờ tối (hay có thể quá hơn một chút.) Trăng thượng tuần đang hào phóng dát từng miếng kim loại mỏng, không đều, lên khối bùn gần như bất động. Từ trên cao nhìn xuống, con kênh cạn như đường ngôi giẽ giữa, thẳng băng, mà tóc hai bên, như suối đen, nhức. Đôi chỗ tóc được highlight bởi những ngọn đèn mầu từ dẫy quán cóc bên kia đường, chạy song song bờ kè.
Khi tôi tới chân cầu, bờ kè, những người bạn của Dã, Trân và Dân, đang hát. Nếu tôi không lầm thì Ngọc đang sống với một ca khúc do chính anh sáng tác. Ca khúc, theo cách gọi riêng của các bạn anh, là Rock xích đạo. Ngọc nói, đó là thử nghiệm, phối ngẫu giữa rock, và; âm điệu truyền thống tây nguyên. Tôi thấy, không chỉ Dân, Dã, Hải, Tasha...bè theo, mà luôn cả những chiếc bóng của Trân, Hân, Dục, Xoan... cũng hòa theo, trong một điệu múa tự phát - - Nửa muốn phô ra, nửa như ngại ngùng, giữ lại. Nhưng, tựu chung, họ cùng nhập đồng trong một điệu blue (giống chiếc bánh thao thiết âm u) chia đều cho mỗi người - - xin đem về xích đạo - linh hồn tôi đêm nay - không còn ai muốn nhận – niềm tin thành mây bay - đầu thai là đi đầy - đầu thai là đi đầy...
Tôi chọn cho mình một chiếc ghế sát lòng kênh; thu mình trong nhập nhoạng âm thanh và những vạt sáng. Tiếng hát những người trẻ bập bùng tự tin, như những ngọn lửa truy hoan muộn màng không ấn định giờ tắt... Nhưng, chẳng nhờ thế mà mùi hôi nồng nặc bốc lên từ con kênh, bị đẩy lui - - Như ngọn lửa (dù cho đó là ngọn lửa truy hoan muộn màng,) và, thần chết (rất công bình,) cuối cùng, rồi cũng tới.
Bản nhạc dứt. Im lặng ập đến, bất ngờ. Tất cả cùng nín thinh. Họ như những kẻ nổi loạn, bỗng không, nhàm chán trò chơi bạo động của / với chính mình. Gương mặt chạm trổ nắng, gió tâm thức gập ghềnh của Dân, lập lòe, lùi xa, sau điếu thuốc. Hải, Tasha cúi xuống ly bia đã tan bọt, với bàn tay không biết dùng vào việc gì, bỏ hờ hững trên bàn. Dã đổi chỗ cho Xoan, ngồi cạnh Hân. Anh trở thành người ngồi đầu bàn, xây lưng vào đường nhựa. Từ vị trí xéo góc, lần đầu tiên, tôi nhìn rõ mặt Dã. Đôi lông mày xếch, đậm của anh, như hai vết mực xạ (qúa tay) từ một người viết thư họa bức bối, thiếu trầm tĩnh. Khuôn mặt Dã vuông vứt, xương hàm bạnh, sắt, thép, như xương mặt người thượng cổ. Bất gíac, tôi cười, với Dã. Có dễ anh không thấy. (Hoặc có thấy, nhưng anh không cho tôi dấu hiệu đáp lại.) Tuồng anh đang đi lại từ đầu, đời mình.
3.
Đêm mỗi lúc một thêm trương phình những bụm tối hăm he dọa nạt, khi các tụ điểm dọc bờ kè bắt đầu thưa vắng. Đèn tắt. Một số hàng quán bên kia đường, đóng cửa. Tiếng gầm thét của những chiếc xe scooter nhiều phân khối, từ xa vọng lại, bơ vơ, lạc lõng treo trên những giây điện vắt ngang bầu trời, ngơ ngác.
Mặt người thanh niên hướng vào con kênh. Giọng anh phẳng, bẹt, không một dợn sóng (dù rất yếu.) Tựa chúng không hề đi ra từ cuống họng anh, (mà,) môi anh chỉ mấp máy như người ta hát nhép, theo một đoạn băng đã ghi âm sẵn. Hay đó là tiếng vọng vô hồn từ một cõi không thật?
Tôi cảm tưởng anh có khả năng vắt cạn kiệt mọi cảm xúc khỏi lời nói mình. Đến độ những con chữ bị bào mỏng như những tờ giấy mới, dễ dàng cắt đứt tay những người thợ in, sơ ý.
Anh nói, sau ba mươi sáu năm nổi trôi từ những năm tháng ở chủng viện, tới những ngày sống ở gầm cầu (vừa nói, người thanh niên vừa chỉ vào dạ cầu, sau lưng tôi,) trải qua tất cả mọi công việc, từ thấp kém nhất, tới địa vị một kiến trúc sư; hiện tại là đạo diễn chuyên ngành tư liệu...những gì anh biết được về mình, rất ít. Nó ít hơn cả những điều anh biết về...kẻ khác!
Người thanh niên kể:
Với hai trang giấy khổ học trò mà, ta tạm gọi là hồ sơ còn lưu trữ tại một chủng viện, ở Đà Nẵng, tôi được ai đó, đem tôi tới chủngviện. Khi ấy, tôi đã hơn một tháng tuổi. Nhưng theo luật của chủng viện, ngày sinh của tôi là ngày tôi được “nhặt.” Đó là ngày...tháng... năm 1969. Lúc họ “nhặt” tôi lên, ai đó quấn sơ sài cho cái hình hài tôi thâm, tím, một manh vải cũ. Những dấu tích đặc biệt trên thân thể, để nhận dạng là...Ngoài ra, dù rất muốn, chủng viện đã không thể có thêm bất cứ một chi tiết nào khác.
Luật của chủng viện cũng quy định, sau mười bốn năm ở viện, bất cứ đứa trẻ mồ côi nào, nếu không được ai đến nhận, nó sẽ được “trả” lại xã hội. Với bốn năm thử thách, nếu còn sống và, nếu không chịu nổi xã hội bên ngoài, đứa trẻ (khi đó đã 18 tuổi,) có thể trở lại chủng viện. Nó sẽ được nuôi dưỡng tiếp để trở thành tu sĩ, tận hiến đời mình, cho Thiên Chúa...
“Cá nhân tôi, tôi chọn ở lại gầm cầu, ở lại bờ kè này - - Ở lại với những kẻ sống bên lề...xã hội!” Anh nói.
Vẫn theo quy định của chủng viện, thì, mỗi cuối năm, đúng ngày...tháng...những đứa trẻ mồ côi chưa được cha, mẹ nhận lại, ở khắp nơi, tụ tập về sân viện; từ 8 giờ sáng tới 8 giờ tối, chờ xem có ai tới “nhận” mình chăng!!!!...
Người đàn ông nhấn mạnh:
“Tôi đã chờ như thế 36 năm. Tôi đã ngồi mười tiếng, mỗi ngày, như thế. Tôi đã trở về chủng viện, như thế, 21 năm... Mỗi cuối năm, dù làm gì, ở đâu, tôi cũng trở về chủng viện. Cuối năm nay, tôi cũng sẽ ‘hành hương’ về chủng viện. Như những tín hữu Công Giáo hành hương về Lộ Đức; những tín đồ Hồi giáo, mỗi năm hành hương về Mecca... Tôi cũng hành hương. Nhưng cuộc ‘hành hương’ liên lủy 21 năm qua của tôi, chẳng phải để xin ân điển, phép lành, mà, trước sau, chỉ duy nhất khát khao cầu xin: Mẹ tôi, một lần, nhận tôi!...”
Tiếng nói đi ra từ người thanh niên (có xương mặt như người thượng cổ và, cặp lông mày xếch, đậm như hai vệt mực xạ (quá tay) từ một người viết thư họa bức bối, thiếu điềm tĩnh...) mỗi lúc một bén ngót hơn. Chúng tựa những lưỡi trủy thủ vốn mỏng như tờ giấy; giờ lại mỏng hơn nữa. Chúng mỏng tới mức vô hình; và vô tình liếc qua, liếc lại trên từng tấc thịt, da kẻ có mặt. Tôi nghe gai ốc nổi, chạy khắp thân thể. Khoảng cách giữa Dân, Hải và Tasha không còn nữa. Tôi không biết ai chủ động việc xích gần, ké, nép vào nhau...Tôi cũng không biết, có phải do những lưỡi trủy thủ của Dã đã liếc quá nhiều lần trên da thịt họ; hay, vì vầng trăng thượng tuần đang khuyết dần bên kia cây cầu và, gió đêm bỗng lạnh?
Tôi cũng không thể quả quyết, (hoặc giả, tôi cố gắng để không bị mang tiếng là hàm hồ,) rằng, điều gì đã khiến da mặt luôn hồng hào của Hân, biến dạng thành da người chết? Trân cũng nhợt nhạt, bấu, níu (thiếu điều đu cả người) trên cánh tay của Hân... Dục bậm môi, như muốn đào thoát...
Người thanh niên vẫn tiếp tục câu chuyện (được kể, lần đầu,) với chiếc mặt nạ (thường trực) cùng, khả năng ngụy trang cao, từ mái tóc đầu đinh, tới bộ quần áo đơn giản, bình thường:
“...Cuối năm nay, năm thứ 22, vào ngày...tháng...tôi sẽ trở lại Đà Nẵng. Trở lại chủng viện. Dù chủng viện đã hai lần thay Mẹ bề trên và, rất nhiều Sơ từng nuôi dạy tôi cách đây 36 năm, cũng không còn nữa. Ngay người quản lý hồ sơ trẻ mồ côi, cũng là người mới... Tôi hiểu chứ, ai thì rồi cũng phải chết thôi. Ngay cả người đẻ ra tôi, người mà 36 năm qua, tôi hằng khao khát thâm gan, ước ao tím mật rằng, cho tôi một lần được thấy mặt mẹ tôi! Cho tôi một lần, được biết tên bà. Cho tôi, một lần thôi, được thốt kêu...Mẹ! Mẹ! Mẹ! Sao mẹ dành bỏ con!!! Sao mẹ không một lần nhìn nhận con, dù đã 36 năm qua? Bây giờ con đã có nghề nghiệp! Bây giờ con đã kiếm ra tiền...tự nuôi thân mình...Và, bây giờ, con đã có thể nuôi được cả mẹ nữa!!! Nhưng, Mẹ! Mẹ! Tại sao? Tại sao? Tại sao?...”
.
“...Tôi hiểu chứ, ai thì rồi cũng phải chết thôi. Ngay Mẹ bề trên, các Sơ nuôi tôi, nhân ái, tử tế như thế, cũng chết. Những người trong nhà bếp, nuôi ăn chúng tôi, những người giữ đống hồ sơ trẻ mồ côi, sống tốt lành như thế, cũng chết...Tôi muốn nói, người đàn bà sinh đẻ ra tôi, có thể cũng đã không còn nữa. Nhưng cuối năm nay, tôi vẫn trở về Đà Nẵng. Tôi sẽ trở về nơi người ta ‘nhặt’ được tôi, cho tới khi có người đến... ‘nhận.’ Dù cho tôi có phải trở lại 15, 30 lần nữa. Dù cho khi đó, tôi đã sáu mươi...Tôi vẫn về. Phải về chứ! Không một ai có thể ngăn cản tôi, luôn cả thượng đế. Luôn cả khi, tôi có biết chắc, tới lúc chết, cũng chẳng ai ‘nhận’ tôi, thì, tôi vẫn về. Tôi về, và tôi tin, cuối cùng, nếu mẹ tôi đã chết, thì linh hồn của bà, tôi cũng sẽ ‘nhận’ tôi theo cách riêng của bà ấy...
“...Thì cứ cho là tôi bướng bỉnh, tôi đầu bò, tôi điên rồ đi - - Cũng được thôi - - Nhưng, xin để mặc tôi tin rằng, sẽ có ngày, có lần, ai đó tìm tới chủng viện, ‘nhận’ tôi - - ‘Nhận’ đứa con chuẩn bị bước vào tuổi...bốn mươi, là tôi hôm nay; hay ông già, sáu mươi, là tôi, mai kia, theo cách của họ!!!...”
Thưa bạn, tôi chỉ ghi nhận được đến đó, câu chuyện của người đàn ông. Không rõ sau đó, anh có nói gì thêm? Tôi chỉ ghi nhận được, sau đó, là những giọt lệ lăn chậm trên nhiều khuôn mặt. Tôi chỉ ghi nhận được, sau đó, Trân nhoài người qua Hân. Cô găm những ngón tay ướt đẫm xúc động của mình, lên đùi người thanh niên.
Riêng cá nhân, tôi thấy rõ, im lặng đã gia tăng sức ép ngột ngạt của nó, lên ngực tôi. Dân bỏ chỗ, đi vòng quanh bàn, kéo chiếc ghế mới, ngồi cạnh tôi. Tôi quàng tay qua vai Dân. Sự di chuyển của Dân làm không khí chao, động...
Và, thưa bạn, sau cùng, dường tôi ngửi được chút hương thơm lạ lẫm, từ dạ cầu, từ lòng kênh, bùn đọng. Nơi không còn miếng kim loại nào, sót lại.
đi với về: cũng một nghĩa như nhau,
Không biết, có phải, biến cố tháng Tư, 1975, đã biến tôi từ một kẻ “vô thần,” trở thành người tin tưởng mãnh liệt nơi đấng vô hình, vô tính, (mà,) chúng ta thường gọi là ông Trời, hay Thượng Đế? Điều tôi cảm nghiệm (là,) nếu tôi không tiễn gia đình anh chị Quỳnh tôi, cùng gia đình bác Lộc (hàng xóm của anh tôi;) (và,) em gái cùng hai cô cháu của bác Lộc ra bến Bạch Đằng, chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975... (thì,) hôm nay tôi còn không? Ở đâu? Thế nào?
Tôi không biết! Điều tôi còn nhớ được: Tôi không hề có ý định di tản. Hai ngày trước đó, buổi trưa, tôi còn ngồi ăn với nhà văn Mai Thảo ở một nhà hàng sau khu nhà Chú Hỏa. Chúng tôi còn nói với nhau rằng, nhà văn, trường hợp nào, cũng không thể bỏ nước ra đi. Vì, chữ nghĩa chỉ có giá trị, ý nghĩa khi nó được sống, thở trong môi trường của dân tộc ấy. Ra khỏi lòng dân tộc, chữ nghĩa chỉ là những xác chết!?!
Điều tôi còn nhớ được: Là kẻ tiễn người đi, tôi hình dung mình sẽ đứng ở cầu tầu, ngước mặt, vẫy tay anh, chị và các cháu tôi xa, lìa đất nước. Tôi đâu ngờ, khi còn khá xa cầu tầu, hàng ngàn người đã bị chặn lại bởi những con ngựa kẽm gai và, cả trung đội quân cảnh hải quân ghìm súng, nhắm thẳng vào đám người lúc nhúc, cùng đường. Họ đỏ mắt, tuyệt vọng, thèm thuồng nhìn những kẻ may mắn có thân nhân là lính hải quân, từ trong Bộ Tư Lệnh, ra đón... Người em rể của bác Lộc (một thượng sĩ hải quân,) là kẻ có quyền...“thưởng / phạt” ấy. Tới giờ hẹn, ông chạy chiếc mobilette ra hàng rào kẽm, xác nhận với những người lính quân cảnh: Ông chỉ đón vợ và, hai người con gái của ông.
Những người lính quân cảnh hải quân kéo ngựa kẽm gai, cho ba người này vào; trước sự ngỡ ngàng, và, loạt súng cảnh cáo, bắn nà trên đầu đám người bị bỏ rơi, ngay khi họ vừa xấn tới...
Tôi không hiểu điều gì khiến định mệnh nổi hứng tinh nghịch, mỉm cười với tôi - - Bằng cách chỉ cho người chỉ huy an ninh bến Bạch Đằng giờ phút đó, trung tá Xuân, thấy tôi. Ông lại gần, với nụ cười (giống như nụ cười của định mệnh!) Nụ cười và, những lời thăm hỏi thân tình, biến tôi từ kẻ tiễn người ra đi, thành kẻ dẫn đường cho gia đình anh tôi, bác Lộc và, bám theo, nhiều thanh niên khác...
Sau đó, những ngày lênh đênh trên biển, những ngày nằm trong lều vải, nghe gió, cát rát mặt ở đảo Guam, tôi chợt cảm nghiệm, dường như mọi chuyển biến, nhỏ nhặt như buồn / vui; lớn lao như thành / bại, sống / chết không hề bị chi phối, điều động bởi hai chữ “tình cờ,” may / rủi. Mọi biến chuyển, theo tôi, dường đã được lập-chương bởi ông Trời, hay “Đấng Một.”
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” một đêm cuối tuần, mùa đông, 1992, trên sân khấu quán Café Tay Trái, ở thành phố Santa Ana, nhạc sĩ Trần Duy Đức xuất hiện. Đức trình bày một số ca khúc phổ từ thơ của tôi (thời chưa quen biết.) Đó là những sáng tác Đức viết, khi còn rất trẻ. Khi Đức là “lính thú,” đồn trú Pleiku núi, đồi, khói, sương, bụi đỏ.
Thời gian này, tôi đang làm tạp chí Nhân Chứng, tuần báo Tay Phải, cùng với Việt Dzũng, Lê Văn Hào, Đỗ Vẫn Trọn, Cao Đông Khánh, Trần Đình Thục... Rất mau chóng, Trần Duy Đức trở thành một cộng tác viên đắc lực.
Sau đó, vai trò của Trần Duy Đức đối với sự sống còn của Nhân Chứng và Tay Phải còn mang tính “quyết định” hơn, khi Việt Dzũng phải trở lại Houston, cùng Lê Văn Hào dựng bảng World Printing. Đỗ Vẫn Trọn về San Jose, “khai phá” cánh rừng truyền thông, báo chí...còn quá hoang sơ (khi ấy.) Ít lâu sau, tới phiên Cao Đông Khánh quyết định đem gia đình về Dallas (trước khi di chuyển về Houston,) hùn hạp với một người bạn, mở văn phòng luật sư, chuyên lo bồi thường tai nạn xe cộ...
Anh em nói, hãy để họ “hùng cứ” mỗi người một phương. Mỗi người ra đi, sẽ là một “đầu cầu” cho tôi; cho số anh em còn lại, khi cơ nhỡ...
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi ngôi nhà đầu tiên của chúng tôi, ở Ranchero Way, Garden Grove, sớm trở thành... “nhà chung” của bất cứ anh em nào, cần tá túc. Đó là thời gian nữ ca sĩ Lệ Thu “gửi” Võ Thạnh Đông cho tôi. “Dì” Từ Hạnh “nhặt về” cho tôi, Lê Giang Trần. Trần Duy Đức “tha về” tòa soạn, Đặng Thanh Phong... Đó cũng là thời gian nhà văn Mai Thảo từ giã tờ Đất Mới ở Seattle, về nam Cali, trông coi tờ Hồn Việt cho Nguyễn Ngọc Tùng, ở Glendale.
Mai Thảo về Orange County không lâu, (thì,) một người bạn thân của ông, nhạc sĩ nhạc sĩ Phạm Đình Chương, rời trại, đảo, đến Hoa Kỳ. Căn nhà đường Ranchero Way của chúng tôi, lại trở thành nơi gặp gỡ cuối tuần của Mai Thảo, Phạm Đình Chương và, Nguyễn Cao Kỳ (một người bạn thân khác,của họ.)
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi Võ Thạnh Đông chia tay tôi, đi “tỵ nạn tình cảm” ở New Orleans... Đặng Thanh Phong “ra riêng,” sau vài tháng được hãng Continental Airline, tuyển làm chuyên viên cơ khí, phi trường Los Angeles. Lê Giang Trần cũng tìm đến những khoảng trời cao, rộng để thỏa chí “bình sinh.”
Người còn lại, ở với nghiệp báo, ở với tôi lâu nhất, lại chính là chàng “lính thú” thư sinh ngày nào. Trần Duy Đức không chỉ ở với thăng, trầm của tờ Tay Phải, rồi tuần báo Nàng, (mà,) Trần Duy Đức còn ở với những sấp, ngửa, dập, vùi đời riêng, tôi nữa.
Tuy nhiên, cách gì, đó cũng là thời gian hạnh phúc nhất của chúng tôi: Khi Đức còn quá trẻ; và, tôi, tuổi bốn mươi, bước tới.
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi có một thời gian khá dài, căn nhà đường Ranchero Way, chỉ còn tôi Đức. Rất nhiều ngày tôi đứng bếp, làm cơm với hai món thịt kho và, trứng tráng...Buổi tối, ngồi dưới chùm đèn nơi chiếc bàn ăn thênh thang, chúng tôi vừa ăn, vừa cố mang lại cho nhau, những câu chuyện, như những lời an ủi (hay tự dỗ dành, phủ dụ,) cảnh đời đìu hiu. chiếc bóng, của nhau. Nhưng, càng cố bao nhiêu, chúng tôi càng thấy rõ hơn chiếc bóng mình, rớt, ngã trên mênh mông vắng, lặng; trên hoang phế, ê chề ghế trống. Những giây, phút không biết nói gì, chúng tôi đối mặt với trái núi im lặng. Cái im lặng trì chiết, đá tảng. Cái im lặng nổi rợn niềm quạnh vắng, heo hút thân phận, cảnh đời...Đôi lúc, tôi tưởng nghe được, hơi thở của nhau. Đôi lúc, tôi tưởng nghe được, cả sự nuốt xuống, nghẹn lại, của những hạt cơm gạch, ngói!?!
Đó là thời gian C. đem hai con về Pháp. Th. quyết định dứt khoát chia tay tôi, bằng cách cho biết, T. đã có bạn: Anh Kent! Đó cũng là thời gian T. H. hiện ra, như chiếc cầu vồng ngũ sắc, giữa chúng tôi. Nhưng cách gì, T.H. cũng không thể ở với tôi ngày, đêm liên lũy. H. có quá nhiều khó khăn. Những khó khăn của một người nạn nhân biển đông. Những khó khăn của một tỵ nạn hết trợ cấp, ghi danh học lại; không học bổng; không đủ điều kiện vay tiền chính phủ...
Tuy nhiên, tôi vẫn muốn nói, có dễ, đó là thời gian hạnh phúc (dù liu điu thất lạc) nhất của chúng tôi. Đó là thời gian tôi hoàn tất tập “Thơ Tình / Love Poems;” tập truyện “Tan theo ngày nắng vội.” Thời gian ấy, Đức cũng cho thấy sức sáng tác sung mãn - - Điển hình là các ca khúc “Tan theo ngày nắng vội,” “Nhớ lại trong đêm nay;” (và,) “Khúc tháng chín” - - Một trong những bài thơ đi ra từ cuộc tình nắng / mưa nghiệt ngã giữa tôi và T.H., một người con gái gốc Tiều Châu.
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi Trần Duy Đức gặp Lê Nguyệt Hạnh trong buổi ra mắt tập truyện “Tan theo ngày nắng vội,” do Việt Dzũng và Lê văn Hào, tổ chức ở Houston, cuối 1983 - - Tình yêu, như mầm cây trong cổ tích, vươn vai, thần tốc lớn theo chiều gió thổi. Đức viết ca khúc “Khi bắt đầu của tuổi ba mươi,” như quà “ra mắt;” hay, sính lễ đầu tiên, cho Nguyệt Hạnh...
Nếu tôi nhớ không lầm thì, chưa đầy một năm sau, tôi được yêu cầu là người hướng dẫn ông cụ thân sinh của Đức, qua Houston, đón Hạnh về làm dâu dòng họ Trần.
Và, chưa tới hai năm, do tài quán xuyến, tính cần kiệm của Hạnh, họ mua được căn nhà ở đáy hẻm cụt La Vergn Way, thành phố Santa Ana.
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi ngôi nhà của Đức-Hạnh, mau chóng trở thành “nhà chung” cho rất nhiều anh em, khắp nơi, tìm về, dừng chân. Tôi nhớ địa chỉ kia, một thời, là địa chỉ thường trực của một Phạm Công Thiện, nhà văn - - Nơi dừng chân ngắn hạn của một Từ Công Phụng, Vũ Thành An, nhạc sĩ - - Một Tô Thùy Yên, thi sĩ - - Một Anh Ngọc, “Frank Sinatra Việt Nam,” khi ông về California thu đĩa.
“Nhà chung” của Đức / Hạnh, cũng là nơi tôi có một thời gian khá dài, tá túc, “tỵ nạn!” Căn nhà đáy kiệt La Vergn nọ, cũng là nơi tôi tiếp tục những tuần báo của mình, sau khi ra khỏi ngôi nhà Ranchero Way. Đó cũng là địa chỉ để T. liên lạc với tôi, khi T. còn kẹt ở Saigòn.
Nhưng, đáng kể hơn cả, với tôi, đó là qúa nửa những bài thơ làm thành các tập như “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu,” “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau;” và trọn vẹn “Trường khúc mẹ về biển đông,” đã được viết xuống, tại địa chỉ ấy.
Sau này, ngôi “nhà chung” của Đức / Hạnh,” cũng là nơi ghi nhận một thay đổi lớn của nhà văn Mai Thảo về lục bát tôi. Trong nhiều họp mặt đông đảo anh em, Mai Thảo, với ly rượu thường trực trên tay, bằng giọng, điệu rất...Mai Thảo, ông đã đọc và “bình luận” dí dỏm một số câu lục bát của tôi, ông thuộc, cho mọi người nghe. (1) Điều này, cho thấy, ông không còn khó chịu, không còn“gai mắt,” lên án lục bát tôi, như những năm quê nhà, trước 1975; chỉ vì tôi muốn cách tân thể lục bát! (2)
Tôi nghĩ, nên nói thêm rằng, ngôi “nhà chung” của Đức / Hạnh, cũng là nơi tôi viết bài thơ ngắn “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau,” đề tặng Đức / Hạnh, giữa lúc tình yêu, hôn nhân của họ có dấu hiệu bị đe dọa bởi nhiều địa-chấn- ngộ-nhận! (Tự thân bài thơ ngắn ấy, cũng như phần số tôi, riêng, nhận lãnh biết bao ngộ nhận!!!)
Với bài thơ ngắn kia, tôi chỉ muốn nhắc nhở Đức / Hạnh (sau khi đã nhắc nhở chính tôi,) rằng: Hạnh phúc hay khổ đau; gặp gỡ hay chia lìa; thành công hay thất bại, may mắn hay bất hạnh; vinh quang hay nhục tủi...Thậm chí sống / chết, cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền nhân sinh; hay vòng tròn luân hồi không điểm đứt!?!
Tôi cũng không cho là “tình cờ,” khi tình yêu của Đức / Hạnh đem lại cho họ, hai đứa con: Đạo, khôi ngô. Nguyệt Lãm, có nhiều nét của những bức chân dung thiếu nữ, trong hội họa, khi chớm vào teenager. Nhưng, tôi thực sự chấn động, ngỡ ngàng, choáng váng khi hay tin Lãm mắc chứng bệnh buồn, vui bất thường - - Danh từ chuyên môn là “bipolar;” ở tuổi mười lăm.
Tôi choáng váng, điếng, lặng, bởi tôi không thể hình dung, Lãm, đang từ một đứa trẻ tiềm tàng nhiều năng khiếu; bỗng trở nên vô cảm, trước mọi sự. Lãm của những bức tranh gây kinh ngạc nhiều người. Lãm với tiếng hát trời cho, được bình chọn là tiếng hát hay nhất của ca đoàn nhà trường. Lãm với những bài luận văn được mang đọc, nhiều lớp...Lãm, như thế - - Lãm, là hy vọng, niềm hãnh diện, không chỉ của Đức / hạnh; (mà,) còn của ngôi trường đang học. Lãm, một sớm trở thành nạn nhân của một trong những vụ thiếu niên bạo động, sân trường. Đó là buổi sáng, Lãm bị định mệnh dắt tay tới trước hai nhóm học sinh thanh toán nhau, nơi hành lang. Máu người tung tóe. Máu người chảy thành dòng nơi “locker” riêng, của Lãm. Và, niềm hy vọng, hãnh diện của trường, giọt máu đi ra từ tình yêu của Nguyệt / Đức đã ngã xuống! Ngã xuống. Cái ngã xuống, thình lình của một đọt măng mượt, mượt bị máu hỏa thiêu, cháy, nám!!!
Tôi hiểu, từ giây phút đó, tai họa đã gõ cửa căn “nhà chung” của Đức / Hạnh. Tôi hiểu, từ đó, Lãm trở thành nạn nhân, hay “trò chơi” tai ác, trong bàn tay tráo trở định mệnh. Tôi choáng váng, điếng, lặng, Đức nghe kể, hơn một lần, Đức hốt hoảng chạy đi tìm con. Thấy Lãm đứng hát say sưa, trước sự ngơ ngác của những người khách trong một tiệm bách hóa, bên cạnh tiệm cho thuê video của gia đình, Đức đem con về. Mở cửa sau căn phố, bước ra khu để thùng rác, Đức bật khóc. Tôi hiểu, những giọt lệ hiếm muộn từ đôi mắt gập ghềnh bất hạnh, vơi, đầy tro, than của một người đàn ông trên năm mươi tuổi. Tôi hiểu, bởi vì, tôi cũng từng, (nhiều lần từng,) là người đàn ông khóc thầm, vụng, như thế. Khác chăng, chỉ ở nơi, tôi đã ngoài sáu mươi.
.
Bạn-tôi,
Khi ngồi xuống viết những dòng chữ trên, như một kêu oan, một khiếu nại với Thượng Đế, về sự hàm hồ (mà,) định mệnh giáng xuống mái đầu trẻ thơ, Nguyệt Lãm - - Tôi đã định sẽ ra khỏi “đơn khiếu nại,” bằng một bức thư gửi cho Đức / Hạnh. Nhưng, giờ tôi mới thấy: Không thể!!! Tôi không thể nói một điều gì, dẫu cho ngớ ngẩn, vu vơ, với Đức. Tôi không thể, ngay khi chỉ tôi, một mình, với màn ảnh - - Chỉ tôi, một mình, những khuya khoắt, ngồi soi bóng chiếc. Tôi hiểu, đời sống, tai ương đã chẳng cho tôi chọn lựa nào khác hơn: Cuối đầu. Im lặng.
Bạn-tôi,
Từ đó, tôi hiểu, tôi không nên nói gì thêm, với Đức, về tính tráo trở, sấp / ngửa trên lộ trình nhân sinh, mỗi đời kiếp. Tôi hiểu, tôi cũng không nên nói gì thêm, với Đức, về tính lăng loàn, trắc nết phần số; hoặc tính giảo quyệt của rủi / may; mất / còn duyên, nghiệp...Tôi nghĩ, Đức biết, tất cả những điều ấy. Có khi Đức còn thấu thị, hơn tôi, nữa.
Vì thế, bạn-tôi, có dịp, tôi xin hãy cho Đức / Hạnh biết, tôi yêu, quý lắm nhân cách của họ. Cái nhân cách làm thành bởi những ăn, ở thủy chung, trời, đất. Có dịp, tôi xin, bạn-tôi hãy nhắc Đức nhớ: Đức may mắn hơn tôi, nhiều lắm. Đức đừng quên, bẩm sinh, tôi vốn là đứa trẻ tật nguyền... Trưởng thành, tôi cũng có những đứa con tật nguyền. Trưởng thành, tôi còn có những đứa con xanh, nõn, nuột nà, chết sớm... Và, những đứa con, lâu rồi, không muốn thấy mặt cha!?! Trong khi, với Đức, Lãm vẫn còn đó. Một ngày kia, tôi tin, Lãm sẽ khỏi bệnh...(Như quá khứ, những Hemingway, những Van Gogh, từng mắc chứng bệnh giống Lãm, cũng đã khỏi. )
Bạn-tôi,
Tôi cũng xin, có dịp, bạn-tôi, hãy cho Đức biết, những ngày, tháng chúng ta cùng nghe ca khúc Trần Duy Đức. Những ca khúc đầy bóng cây (và,) tiếng hú thống thiết của những con gió tâm tưởng, băng băng vực, đèo đời ta, dốc ngược. Những con gió trong bối cảnh “như núi sớm hao gầy – và dòng sông sớm cạn - Bây giờ mùa mưa luôn thánh thót vườn đời ta - thánh thót vườn đời ta...” Hoặc “...như con thú đã bạt khỏi rừng – đã chạy cuồng về cuối biển – bây giờ nơi những dấu chân quen - có chút gì tội nghiệp...” Nhưng một khi “thương nhớ đã như cây”- Thì chúng “sẽ phải còn lớn mãi..” Và, “nơi cuối mỗi cuộc đời - xin người phải tin: trái tim ta với những lời nói thật...” (Đời mãi ở phương đông, nhạc Trần Duy Đức.) (3)
“Những lời nói thật” của âm nhạc Trần Duy Đức, như “những lời nói thật” trong các ca khúc của một Phạm Đình Chương (đã khuất,) một Từ Công Phụng, Đăng Khánh, Anh Bằng, Nguyên Bích, Vũ Thành An, Nguyễn Linh Quang...(rất xa),) từng làm chúng ta quặn, thốn gan, ruột...
Bạn-tôi, tôi muốn nói, cách gì, những khuôn nhạc, những âm giai mang tên Trần Duy Đức (và, những người tôi vừa kể,) cũng đã là những chủng tử gieo, cấy trên bờ, luống tâm hồn, thần thức ta. (Những tình sâu, những nghĩa nặng bạn-tôi dành cho tôi, tôi nghĩ, cũng là chủng tử!) Những chúng tử, theo tôi, chính là dấu, vết nhận dạng, để ta tìm nhau trong đời sau hay, kiếp khác.
Bạn-tôi, có dịp, tôi xin hãy nhắc Trần Duy Đức, (và, luôn cả bạn-tôi nữa,) những điều tôi nói hôm nay, ở đây. Những điều tôi trích ra từ dòng nhạc Trần Duy Đức (cũng hôm nay, cũng ở đây,) là “những lời nói thật!” Những lời nói của người đã già! Một người, đang cuối, kiếp!
Bạn-tôi, nếu cuộc đời không còn cho chúng ta cơ hội cùng nghe “những lời nói thật,” nhưng, có dịp, tôi vẫn xin bạn-tôi, nhắc nhở Đức / Hạnh: Cách gì buồn / vui; hợp / tan; sinh / tử...cũng chỉ là hai mặt của một đồng tiền chuyển hóa. Như “đi với về, cũng một nghĩa như nhau!”
Cho nên, bạn-tôi, cho phép tôi được viết những dòng cuối cùng của bài viết này, cho bạn-tôi. Những dòng cuối, hiểu theo nghĩa như những giọt lệ sót lại, trong tôi, những ngày nằm bệnh. Những ngày “đợi chết,” tôi thấy, kẻ nào, cuối cùng, cũng chỉ là một sinh vật tội nghiệp, lẻ loi, liu điu tìm về nấm mộ, riêng mình.
Lại nữa, ngày nào, sau khi tôi chết, có dịp, tôi vẫn xin bạn-tôi, đừng quên nhắc nhở Đức / Hạnh, cái ý nghĩa tận cùng, ý nghĩa đằng sau câu thơ “đi với về, cũng một nghĩa như nhau” (mà,) tôi từng tặng họ.
Và, rốt ráo, cũng xin bạn-tôi, đừng quên đọc thầm cho tôi, câu thơ trên, những khi bạn-tôi thản hoặc dềnh, dâng chút tưởng, nhớ tôi, kẻ không còn, nữa!!!!!
Đọc thêm Lê Văn: “Hứng nhạc trong thơ Du Tử Lê - - Du Tử Lê, Tác giả & Tác phẩm,” tập IV. H.T. Productions, Calif., USA, ấn hành 2000.
Đọc thêm Nguyễn Hưng Quốc: “Nghĩ về thơ.” Nhà xuất bản Văn Nghệ, Calif., USA, ấn hành, 1989.
Nghe thêm Trần Duy Đức, CD: “Em hiểu vì đâu chim gọi nhau.” Nguyệt Lãm Productions, Calif., USA, thực hiện, 1992.
HOÀNG SỸ
- Hoàng Sỹ, tên thật là Nguyễn Hoàng Sỹ.
- Sinh ngày 12 tháng 8 năm 1944, tại Hà Trử, Phú Vang Thừa Thiên.
- Cựu học sinh Quốc Học, Huế. Cựu sĩ quan BĐQ / QLVNCH.
- Cựu tù cải tạo.
- Cựu chủ nhiệm tuần báo Đất Nước. Hội viên Hội Văn Bút VNHN.
- Cùng gia đình, hiện định cư tại miền nam California, USA.
Daddy! Còn Có Ngày Mai
Cho tới giờ phút nầy, mỗi khi ghé thăm thành phố Thiên Thần, Việt không sao quên được chuyện một cô gái Á Châu đã nồng nhiệt ôm chặt lấy anh nơi hành lang của một bịnh viện, miệng se sẽ nữa như van xin, nửa như nũng nịu hờn dỗi:
- Daddy, daddy đưa con về nhà, daddy nhé! Nơi đây buồn lắm, con không chịu ở nữa đâu!
Cô gái Á Châu này nói với Việt bằng ngôn ngữ, không phải Nhật, Đại Hàn hay Phi Luật Tân, cũng không phải là tiếng Trung Hoa của các sắc dân anh đã từng tiếp xúc, mà là tiếng Việt Nam, líu lo ríu rít như chim. Anh ngớ người, nhưng may mắn có người quen làm việc nơi đây cười bảo:
- Cô ấy tưởng cậu là daddy của cô đấy. Thế nên cô ấy nũng nịu đòi về. Cô ta vào bệnh viện này được hơn 4 tháng rồi…
Việt chợt hiểu “Cô gái nhớ nhà, nhớ ba… đòi về, thế thôi: Và rồi anh khẽ vỗ nhẹ lưng cô, gật đầu. Anh không nỡ từ chối dầu chẳng phải là ba của cô. Anh không muốn cái ấn tượng đẹp nơi đôi mắt kia chợt sa sầm bởi sự tháo gỡ hất tay chối bỏ vội vàng…như xua đi niềm tin và hy vọng tràn ngập nơi cô gái này. Thêm một lần anh vỗ nhẹ vai cô, tế nhị rời khỏi đôi tay cô đang ôm chặt và chỉ vào căn phòng tiếp khách, nơi đó có người cháu anh đang chờ đợi.
Cô gái phụng phịu:
-Ba ơi! Đừng bỏ con nhé!
Quả thực, không hiểu sao lúc ấy Việt lại như thật hiểu tâm sự cô gái qua cái ngôn ngữ thật diệu vợi nhưng lại rất thanh, rất nhã khiến anh mủi lòng muốn khóc. Anh lặng lẽ gật đầu.
Khi đã ngồi trong phòng khách thăm hỏi bệnh tình của người cháu, nhìn qua song cửa sắt, anh vẫn còn thấy cô gái ấy vẫy tay, miệng khẽ gọi “daddy” mà lòng thấy se lại.
“Đúng là cảnh dân lưu vong, lạc lõng nơi xứ người mà vắng thiếu người thương.” Việt nghĩ thầm.
Tuần lễ sau Việt lại trở về Los Angeles thăm lại người cháu bị bệnh được gia đình ký gởi.
Bệnh viện chuyên trị Tâm thần này khá đông, đủ mọi chủng tộc, phần lớn là người Á châu, Nhật bản, Trung Hoa, Đại Hàn, Miên, Lào, Phi và Việt Nam. Lác đác vài người Châu Âu, Mỹ ngồi buồn trên ghế đá.
Vì chưa có dịp vào khắp các phòng quan sát, có thể nhận xét của anh chưa được hoàn toàn chính xác. Nhưng hề chi đến bệnh viện tâm thần này, anh chỉ có mỗi mục đích là thăm người cháu, con bà chị ruột, bệnh càng ngày càng nặng.Và giờ đây lại thêm nỗi bận tâm về cô gái nhận mình là ‘daddy” kia tình cờ anh gặp. Cô ấy đã ôm lấy anh mà năn nỉ, kêu anh là ba, là daddy và đòi về với cử chỉ đầy thiết tha cảm động và nơi cô có sự nhỏng nhẽo dễ thương của một thiếu nữ thường được cha mẹ nuông chiều.
Phía hành lang gần phòng khách, lố nhố đầy người, toàn là người bị bệnh thần kinh, sau giờ ăn chiều, tụ tập hóng mát chờ đến giờ đi ngủ. Họ rất hiền và tỏ ra có kỷ luật. Thoáng trông thấy anh, cô gái vội chạy vụt ra, mừng rỡ:
- A! daddy, daddy đến đón con về, phải thế không?
Vòng tay cô gái lại ôm choàng lấy Việt, miệng tươi cười, rối rít reo vui, đầu cô áp vào ngực anh với niềm vui chứa chan như có được sự che chở, đùm bọc.
Việt không biết phải nói gì trước trạng huống khó xử này, cho cô ấy biết sự thật? Bảo cho cô hay rằng anh chẳng phải là cha cô? Và phủ phàng gỡ tay cô ra rồi quay mặt bỏ đi chẳng cần lời giải thích? Anh không nỡ làm những điều như thế, chẳng bao giờ anh có thể nhẫn tâm trước nỗi đau của người khác, hay gieo vào họ một thất vọng ê chề dù đó là người già hay trẻ, ông hay bà, cậu hay cô kể cả trẻ con mà anh chưa một lần quen biết.
Bao u uẩn buồn thương của người đời mà suốt năm mươi năm qua anh đã gặp, anh chỉ có những lời an ủi thân tình tùy theo hoàn cảnh, tùy theo khả năng anh thường linh động giúp đỡ bằng lời nói, bằng việc làm, có khi như “người giúp việc”. Tóm lại bằng tất cả tình thương, cho người sở cậy nơi mình được chút niềm tin và hy vọng, ở một ngày mai tươi sáng, đẹp và đáng sống hơn.
Thú thật đã hơn một lần, anh lau nước mắt cho một bà già tủi phận chồng con, ngồi lặng lẽ bên đường, giữa phố đông người. Lần khác, một thiếu phụ đứng khóc trong công viên Tao Đàn, muốn tìm cái chết để giải thóat, chỉ với đôi điều khuyên giải khi nghe ra người trong cuộc như bừng tỉnh, nhận thấy ngay cái nông nổi dại dột trong những suy nghĩ toan tính của mình… Và đến nay, chính Việt lại phải giải quyết chuyện cô gái bệnh họan này, anh cũng cười vui với cô, cùng ôm lưng vuốt tóc cô, Việt bảo:
- Con chịu khó ở đây thêm thời gian ngắn nữa, các bác sĩ sẽ chữa cho con hết bệnh. Nếu con ngoan, con nghe lời ba thì ba mới thương, hết bệnh, ba sẽ đón con về nhà và ba sẽ bồng bế con như ngày xưa, thời mà con còn bé vậy.
“Tâm thức” cô gái dường như nghe, cảm nhận và hiểu hết những lời Việt nói, những lời nâng niu vỗ về ấy, cô ngước mặt lên nhìn Việt bằng đôi mắt rạng rỡ:
- Daddy, con sẽ ngoan, con nghe lời daddy, khi con về nhà daddy phải nhớ bế con, ôm con vào lòng như ngày xưa đó nhé!
Việt gật đầu, gỡ nhẹ tay cô và trở lại phòng khách, nơi đây người cháu trai tội nghiệp của anh đang chờ, đang rủ đầu kiên nhẫn đợi Cậu
Hai tuần sau Việt trở lại bệnh vịện, buổi chiều Los Angeles đầy nắng vàng, màu nắng của Việt Nam và có làn mây trắng lững lờ trôi trên trời xanh rất gợi cảm, anh chưa thấy cần phải vào thăm ngay người bệnh. Còn sớm, anh ngồi trên băng ghế xi măng, vơ vẩn nhìn trời mây cao xa vời vợi, suy nghĩ về cô gái kia, anh muốn hiểu tâm trạng cô gái ấy, người thiếu nữ Việt Nam đẹp, hiền hòa, cử chỉ và lời nói tuy trong bệnh họan nhưng cũng biểu lộ cho anh thấy rằng cô sinh ra trong một gia đình nho giáo trung lưu, nhưng vì nguyên nhân nào cô phải bị bệnh tâm thần để rồi phải vào đây? Đó là vấn đề anh cần hiểu để có cách cư xử và tại sao cô lại kêu anh là daddy, là ba mà chỉ có anh chứ không phải người đàn ông nào khác?
Đang miên man trong dòng suy nghĩ thì có chiếc xe vừa dừng sau cổng, chiếc Mercedes đắt tiền, người lái xe là một đàn bà khoảng năm mươi dáng dấp đẹp theo kiểu mệnh phụ, quý phái. Nàng xuống xe, tiến lại phía anh và nhã nhặn
- Ông đợi vào viện thăm người thân? Chưa đến giờ phải không, thưa Ông?
Ồ, mệnh phụ là người Việt Nam! Việt thầm kêu và đứng lên:
- Thưa bà, cũng sắp tới giờ được vào, tôi đến thăm cô con gái… À mà cũng không phải con gái ruột… nhưng cứ mỗi lần tôi vào đây cô ấy gặp tôi đều gọi tôi là daddy, là ba, không những thế mà cô còn đòi tôi đưa cô về nhà, về với gia đình, về với mái ấm, thật là xao xuyến cả ruột gan!
Nghe Việt nói, gương mặt người thiếu phụ đổi nét, đôi gò má ửng đỏ, giọng hơi run run, nàng ấp úng:
- Thế ra,…đã mấy tuần qua, phải hai lần tất cả, ông đã gặp cháu Michelle Trân? Cháu là con gái duy nhất của tôi, hai lần vào thăm trước, cháu có kể lại rằng cháu đã gặp lại ba….và cháu đã khóc đòi ba đưa về nhà, lần mới đây, cháu còn cho biết thêm rằng “daddy hứa với con thời gian ngắn nữa daddy sẽ đưa con ra khỏi viện này” tôi rất ngạc nhiên, vừa lo cho tâm thần của cháu và cũng muốn tò mò muốn biết người đàn ông đó là ai? Té ra là ông thưa có đúng thế không? Việt cười rất hồn nhiên và thanh thản nói:
- Chính tôi là …nạn nhân của cái tiếng daddy ấy đấy, con gái bà đã đặt cho.. và… thế là thế nào, tôi cũng rất đỗi ngạc nhiên bây giờ đến phiên tôi, cũng như bà, tôi cũng muốn tò mò, cũng muốn tìm hiểu căn nguyên mà cháu bệnh.
- Ôi! Thiếu phụ kêu nhẹ, ôm mặt khóc, nước mắt chảy xuống hai gò má.
Việt như rơi vào một trạng thái hụt hẫng, khó xử. Cái tình cảm hiếm quí nơi con người Việt Nam thật sự không thích hợp ở Hoa Kỳ đầy tình vị kỷ đong đếm hai chiều này. Tình thương giữa con người với con người như tình thương đến với hai mẹ con thiếu phụ kia một khi họ trở mặt, trái tim ta rất có thể được trưng bày nơi vòm cao nhà bát giác của thành phố Thiên Thần bất kể năm tháng hay ngày giờ nào.(*)
Một đứa trẻ mắt xanh, tóc vàng chợt té, khóc ré lên… vì từ tâm, ta vội chạy tới đỡ dậy thì tai ta đón nhận câu: “ Đồ dơ bẩn, không được đụng vào người nó, đừng gây vi trùng bệnh tật cho con tao!” Thế đó, cái từ tâm vô vị lợi trong một xã hội nặng đầu óc kỳ thị, khinh người, chúng ta không vì hội nhập mà bắt chước cái gương sáng ấy được. Không bao giờ và nhiều điều khác nữa.
Việt khẻ nói như tiếng ru của gió mát buổi chiều.
- Bà lau nước mắt đi, đừng nên thương cảm nữa, từ từ định liệu, mọi việc sẽ tốt đẹp thôi, tôi tin vậy.
Thiếu phụ mở xách tay lấy miếng napkin nhỏ xíu, cầm hờ hững trên tay, rồi nhìn Việt không nói.
Rất tự nhiên, Việt rút nhẹ miếng napkin chậm nước mắt cho nàng và mấy giọt còn đọng lại trên má, nhét lại napkin vào tay thiếu phụ Việt nói:
- Bà nên phớt nhẹ một lớp phấn hồng, làm đẹp lại để lát nữa còn gặp cháu Michelle Trân, không nên tỏ vẻ buồn trước mặt cháu nhất là lúc nầy.
Nàng nghe theo, một lát sau nàng lại ngồi bên cạnh Việt tỏ ra thân thiện, nàng niềm nở:
- Xin phép ông, tôi sẽ kể hết cho ông nghe, tóm gọn thôi. Tôi là con thứ chín trong một gia đình gốc Trung Hoa, nguyên quán Hàng Châu, thầy mẹ tôi lập nghiệp tại Việt Nam. Trước ở Hà Nội về sau vào Chợ lớn, gia đình buôn bán khá giả, tôi học văn hóa Trung Quốc tới bậc Đại học, thông thạo tiếng Bắc Kinh (phổ thong) và nhiều tiếng địa phương khác như Quảng Đông, Phúc Kiến. Chính thứ tiếng địa phương Hàng Châu ríu rít như chim mà con gái tôi thường nói với ba nó, cũng do tôi dạy từ hồi cháu còn nhỏ.
Thông thường, các anh chị tôi đều lập gia đình với người cùng xứ sở, chỉ riêng có tôi là…cãi lại quy luật của gia đình, tôi lấy chồng người Việt Nam, anh ấy là Trung Úy Biệt Động Quân, năm 1970 chúng tôi yêu nhau, thề hứa với nhau từ thuở còn đi học. Do đấy tôi làm cuộc cách mạng là rời hẳn gia đình cùng với anh ấy xây dựng hạnh phúc riêng cho chúng tôi, chúng tôi sanh cháu Trân mà ông đã gặp. Cho đến năm 1975, cháu mới 4 tuổi. Trong 5 năm ấy, vợ chồng chúng tôi và cháu có rất nhiều kỷ niệm vui cũng như buồn. Ba cháu thường bế ẵm, nựng nịu với con, nô đùa trong căn nhà của trại gia binh bé nhỏ trên đường Tô Hiến Thành. Cái hình ảnh ấy, cái ấn tượng đẹp đẽ ấy in sâu vào trí óc con trẻ. Thấy vắng là nó đòi ba, đôi khi khóc không sao dỗ được. Khóc cho đến khi mệt nó ngủ thiếp đi mà miệng vẫn mấp máy kêu ba, ba.
Thế rồi, một ngày kinh hoàng đổ ập xuống trên đầu mọi người. Ba cháu lái chiếc xe Jeep nhà binh đưa mẹ con tôi về bên Ngoại…tá túc, sau khi dặn dò tôi đủ điều rồi cùng với mấy người cùng đơn vị lái xe chạy về miệt biển, tìm đường ra khơi.
Từ hôm đó anh ấy đi biền biệt, chúng tôi chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa. Năm 1979 mẹ con tôi theo gia đình Ông Bà Ngoại sang Hoa Kỳ. Định cư tại khu China Town và vẫn làm ăn buôn bán như Chợ lớn năm xưa, cháu Trân học trường Mỹ, nói tiếng Mỹ và quên dần tiếng Việt, tiếng Hoa. Bây giờ cháu đã 23 tuổi, chưa lập gia đình, mấy năm trước khi bệnh cháu thường bảo “khi nào gặp lại ba thì mới tính chuyện riêng cho đời cháu bằng không thì…
- Cháu Trân có người yêu chưa? Việt ngắt lời.
- Chưa, nó không chịu thân quen với bất cứ bạn trai nào dầu có rất nhiều bạn đủ sắc tộc cùng học theo đuổi, hoặc những người nhờ mai mối. Thiếu phụ nói tiếp – Lòng nó lạnh nhạt với tất cả, cho tới ngày mới đây nó gặp ông, không hiểu sao nó cứ đinh ninh ông là ba của nó. Nàng cúi mặt nói nhỏ…Kể cũng lạ thiệt!
- Vâng, kể cũng lạ!
Việt nhìn thiếu phụ và đứng lên nói:
- Đã tới giờ vào thăm bệnh nhân rồi. Thôi, tôi xin chào bà, có lẽ tôi đi về thôi.
- Ông không vào thăm người cháu? Thiếu phụ ngỡ ngàng và tiếp câu chuyện đang nói dở. Từ đó cho đến giờ tôi vẫn chờ vẫn đợi, tôi hy vọng gặp lại chồng tôi, cũng như cháu Trân vẫn mong ngóng người cha thân yêu sẽ trở về sau một đêm dài gió bão. Cháu thường hoảng hốt rồi sinh bệnh. Chúng tôi chạy chữa với biết bao Bác sĩ nổi tiếng nhưng bệnh của cháu chẳng hề thuyên giảm buộc lòng tôi phải đưa cháu vào đây chữa trị…Nàng ngập ngừng, mặt hơi hừng nóng vẻ thẹn thùng. Hỏi nhỏ với ông một câu nhé: Ông có thể giúp tôi, nhận làm ba của cháu một thời gian cho cháu dứt khỏi ấn tượng đợi chờ, nhớ thương cha được không? Tôi không dám quên lòng cao thượng của ông.
Việt cười nhẹ. Tình thương chân thật của Việt đối với nhân quần xã hội bấy lâu, lại một phen thử thách. Đã 60 tuổi trời cho, Việt thấy bây giờ chẳng còn gì để thử thách ai, cũng chẳng bận tâm đến những ai thử thách mình. Anh quan niệm cuộc sống hiện tại chỉ “giấc mơ ban trưa” phù du, chóng đến, chóng đi đối với riêng mình, một kiếp nhân sinh. Thế nhưng, Việt lại cứ bận tâm về những chuyện của thiên hạ. Nghĩ về những người thân nơi quê hương cách xa nghìn dặm, những phức tạp bon chen của cộng đồng người Việt ở Hải ngoại, chuyện vợ con, gia đình thêm những chuyện ngoài xã hội… và như việc “thương vay khóc mướn” bây giờ, chuyện mẹ con người thiếu phụ này.
Việt nói sau khi cân nhắc kỹ:
- Tôi phải về miền Bắc, và một vài tiểu bang xa trong vài ngày tới, tôi làm Báo, mong bà thông cảm cho tôi, tôi không thể thường xuyên tới đây nữa, mặc dù rất thương cháu Trân. Do đó tôi chỉ có thể giúp bà bằng cách viết ít dòng cho “con gái Michelle Trân” Đại ý “Con cố gắng uống thuốc, tỉnh dưỡng làm sao cho chóng khỏi bệnh, thế nào ba cũng đón con về sống với ba với má…và cả gia đình chúng ta. Chúng ta sẽ cùng trở lại căn nhà đầy kỷ niệm thân yêu, trong khu Cư xá Tô Hiến Thành, gần nhà ngoại ở đường Hùng Vương Chợ Lớn, nơi con được sinh ra và cũng nơi đó ba phải rời xa, bỏ lại tất cả - lúc con tròn 4 tuổi…” Đại khái như vậy được không bà?
Người thiếu phụ cúi đầu trầm ngâm, một lát nàng ngẫng mặt lên mỉm cười, vui vẻ.
- Tôi hy vọng và mong ông cố gắng giúp cho cháu vượt qua khủng hoảng này. Tôi chỉ có mình cháu, còn bức thư, bao giờ cháu Trân sẽ nhận được, thưa ông…nhà báo?
- Tối nay tôi sẽ viết, sẽ gởi thẳng cho cháu qua bưu điện, và tôi sẽ gởi gắm cháu qua Bác sĩ Duy Công ở bệnh viện này mà tôi rất thân quen.
- Thành thật cảm ơn ông, chúng tôi, mẹ con tôi rất …trông …
À suýt nữa tôi quên - ba cháu tên Chương Trần, tôi là Hường (A. Hường) hồi chúng tôi còn ở Sàigòn, cháu vẫn còn nhớ. Xin ông nói rõ để tiện khơi dậy nơi tâm trí ngẩn ngơ của cháu…những kỷ niệm xưa cho cháu thêm tin tưởng.
- Tôi hiểu!
Việt cho hai tay vào túi quần rồi lửng thửng bước đi, nắng chiều đã tắt dưới những bức tường dài, chiều xuống thật mau. Đèn đã bật sáng khắp các ngả đường và vàng vọt trong khu Bệnh viện.
_______________________________________
(*) Thành phố Los Angeles có một nhà tù xây theo hình bát giác, cao ngất nghểu.
O Mơ
Trong đời mỗi người, ai không một lần nói với nhau những câu chuyện khởi đầu bằng hai tiếng: “Hồi đó…” Giới nào, giai cấp nào cũng có chuyện: “Hồi đó…” để mà kể mỗi khi có bạn bè, bà con tụ lại dù bất cứ nơi đâu, hay cơ hội nào; từ hành lang của các buổi họp hội cho đến cà phê vỉa hè hoặc tại nơi đám cưới, đám hỏi cho đến sân chùa hoặc nhà thờ. Hễ có có gặp nhau thì không thể thiếu chuyện “hồi đó” được. Tôi đã từng nghe ….”hồi đó ở quân đội với những hình ảnh hào hùng nơi trận địa, những cuộc hành quân đầy gian khổ và hiểm nguy, chen lẫn chuyện vui chơi nơi phố thị, hay những cuộc tình qua mau trong mấy ngày phép. Chuyện “Hồi đó” tôi giữ chức nầy, trách nhiệm nọ. Hồi đó và hồi đó…Nữ phái lại càng có nhiều chuyện “Hồi đó…” hơn – Nó thất tình vì ông Phi công A, cô giáo B. gãy đổ sau hai năm mặn nồng với ông X… “Hồi đó…”
Hồi đó của tôi thật buồn, với những tháng ngày khốn khó, xót xa trong suốt tuổi thơ, nhưng lại có được tình cảm ngây ngô, trong sáng nơi làng mạc quê mùa, hẻo lánh. Tôi đã cùng lũ trẻ trong làng hồn nhiên, an phận lớn lên trong cảnh đời khắc nghiệt, bằng chén cơm độn ngô khoai. Chúng tôi và dân làng núp nắng che mưa trong những mái tranh xiêu vẹo mục nát. Làng tôi tọa lạc tại hướng đông nam cách xa thành phố Huế mười hai cây số. Trước năm 1945, người lớn kể lại rằng, thời đó làng tôi giàu nhất Tổng, có khoa bảng, có Thất phẩm, Cửu phẩm. Cậu (cha) tôi đã từng giữ chức phó Tổng cho đến khi người mất, năm 1950. Dù vậy người ta vẫn gọi mạ (mẹ ) tôi là bà Phó, bác Phó hay mệ Phó. Lúc ấy tôi mới lên bảy, chưa biết gì nên cứ ngỡ rằng Cậu Mạ tôi tên Phó cho nên khi nói khi đọc có chữ Phó, anh chị em chúng tôi thường nói trại ra thành Pho hay đọc nhỏ đi vì kỵ húy.
Thế hệ bọn tôi bất hạnh ra đời đúng thời điểm quê hương, làng mạc của tôi bị sa sút đến tận cùng do thiên tai hạn hán – bão lụt triền miên. Dân số chỉ khoảng một trăm năm mươi người trong 40 gia đình. Đầu làng, cuối làng có năm đường hẻm nhỏ còn gọi là kiệt. Bao quanh làng là con đường cái với lũy tre xanh cao vút. Vệ đường là nơi quen thuộc của lũ trẻ, bọn tôi, hàng ngày đi học, hàng giờ rong chơi. Tôi làm sao quên được sau những buổi tan trường, lũy tre đó đã đã cung cấp cho tôi những bó củi cho mẹ tôi nấu cơm. Cũng lũy tre đó tôi đã bẻ được nhiều măng vòi, đem về cho mẹ tôi làm dưa để ăn vào những ngày mưa không nhóm chợ.
Mức sống của dân làng tôi hầu như ngang nhau. Kiệt 1 và Kiệt 2 được gọi là Xóm Trên thì có khác đôi chút, thay vì trước sân nhà là những luống khoai mì ốm yếu, lêu nghêu thì họ trồng bông cúc, bông thọ và truớc ngõ là giàn bông giấy màu tím, màu đỏ biểu hiện sự giàu có; nhưng thật ra cũng chỉ đủ ăn đủ mặc như nhà ông Ấm, ông Xạ. Vài nhà thì còn có giếng nước riêng và trồng phượng vĩ. Mùa hè đi ngang qua xóm trên thấy phượng nở, ve kêu, chúng tôi tưởng tượng như thành phố Huế xa xôi cũng chỉ vậy thôi.
Trên con đường cái nầy, hồi chúng tôi cùng học với nhau ở trường tiểu học, hàng ngày tôi và Mơ rảo bước bên nhau lúc tan trường về. Con đường đất đã chứa biết bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ, hồn nhiên và trong sáng của chúng tôi, dù cho cuộc sống phải trực diện với bao khắc nghiệt ngoài cái nghèo đói, thiếu thốn. Ngay cả cái nhu cầu tối thiểu để chống đỡ với mùa đông lạnh giá chúng tôi cũng không có. Ngược lại đến mùa hạ oi bức thì không thuốc men để chống chữa những bệnh thiên thời. Mọi người hầu như không biết viên thuốc là gì. Đau ốm nặng nhẹ đều chữa trị bằng lá cây như ngải cứu, lá sả, lá chanh v.v. hay chích lể. Dầu hôi cũng là vị thuốc dùng để thoa lên cơ thể với hy vọng chống độc giảm đau. Khi tuyệt vọng thì đốt nhang khấn vái trời đất ban phép nhiệm mầu vào chén tàn nhang, nước lã để cho bệnh nhân uống với niềm tin tuyệt đối. Có người khi cây nhang chưa tàn trên bàn thờ thì đã tắt thở!
Trở lại với Mơ, tôi nhớ mãi một buổi sáng khi đến chia tay nàng để qua một làng kế cận học nghề may sau khi cả hai chúng tôi đã có bằng tiểu học, Mơ nói:
- Răng đi học nghề rứa? Răng không ráng lên Dinh (Huế) học Đệ Thất, Đệ Lục như thằng Dư, thằng Thìn?
- Thôi, đã tốt nghiệp Tiểu học rồi, rứa cũng đủ chữ nghĩa để ra đời, nhà nghèo tui phải đi học cho có cái nghề còn giúp mạ tui nữa!
- Đã tính rồi thì học cho mau, cho giỏi, mai mốt về mở quán may thì bà con khỏi phải đi xa… mà Thỉ qua bên nớ có nhớ… làng không?
Tôi hiểu ý Mơ muốn hỏi điều gì, nhưng sự ngại ngùng và e thẹn của con gái quê mùa chơn chất như Mơ không thể nói thẳng ra được. Thật ra tôi và Mơ đều có ý nghĩ như nhau, tôi trả lời nàng:
- Tui nhớ Mạ tui, tui nhớ… mấy người chứ làng mình có chi mà nhớ, Thỉ vừa nói vừa thoáng nhìn nét buồn lộ hẳn trên đôi mắt ướt của nàng.
Hai đứa học chung trường với nhau từ lớp năm đến lớp nhất. Bây giờ Mơ đã 14, tôi 13. Tuy lớn hơn một tuổi nhưng Mơ không cao hơn tôi. Nước da trắng mịn màng. Đặc biệt Mơ có mái tóc dài óng ả, phủ quá lưng. Sau khi xong bậc Tiểu học, Mơ nghỉ ở nhà phụ mẹ bán tạp hóa. Quán hàng đơn sơ, mỗi thứ một ít, từ gạọ đường, muối nước mắm đến các thứ linh tinh như bánh kẹo, kim chỉ cùng nút áo v.v. Trên kệ gỗ còn chưng mấy chai rượu đế, dưới đất vài thùng nhỏ dầu hôi. Khách hàng quanh quẩn cũng chỉ là dân trong xóm. Đôi khi phải bán chịu đợi đến mùa gặt hái mới trả. Nhà tôi cách nhà Mơ vài trăm thước qua 3 cái mương nhỏ. Chúng tôi chơi thân nhau hơn bọn thằng Dư thằng Thìn, thằng Tạ hay bọn con gái đồng trang lứa như O Gạo, O Hơn, O Thẻo dù rằng thường hay chơi chung với nhau vào những đêm trăng tỏ trên bãi cát đình làng. Trai gái chơi chung những trò chơi như nhảy dây, đánh đáo, bán hàng hay đánh ruộng. Tôi và Mơ thường cùng phe với nhau, ít la ó ồn ào. So ra thì hai chúng tôi học cao hơn bọn trẻ đồng trang lứa trong làng. Có đứa học lớp nhì, lớp nhất, chẳng có đứa nào có bằng tiểu học như hai đứa tôi vì chúng đã phải vất vả chuyện đồng áng, chăn trâu cắt cỏ. Tôi và Mơ được các chú trong Ủy Ban Thôn sai bảo giúp sổ sách vì được khen có chữ viết đẹp, cọng trừ nhân chia tiền nông nghiệp, lập biên bản hội họp, viết sổ gia đình rành rọt, vì thế mà cư’ mỗi lần chú Trưởng đội gọi: “Tối nay hai đứa lên Ủy ban mần việc…” Những lúc đó dù gia đình có khó khăn, ngăn cản chúng tôi vẫn kiếm cách đi cho bằng được. Chúng tôi được ngồi bên nhau, ghi ghi chép chép bên nhau với niềm vui tuyệt vời. Có Mơ bên cạnh tôi nắn nót từng chữ thật đẹp và cố làm nhanh để có thì giờ giúp Mơ. Có lần xong việc về sớm, hai chúng tôi đi vòng quanh đường làng. Chúng tôi sánh bước đi dưới bóng trăng mờ ảo, từng bước qua ngõ ngách quen thuộc thật là thần tiên. Chúng tôi đến bãi cát Đình làng, ngồi bên nhau ngắm ánh trăng trải dài trên cát trắng, thủ thỉ với nhau. Hình như chúng tôi chẳng có gì để nói với nhau ngoài chuyện mùa màng, sắn khoai hay chuyện bắt cá, bắt tôm hoặc chuyện hái rau gánh nước… nhưng sao tôi cảm thấy tim tôi đặp mạnh liên hồi…
Có lúc Mơ thổ lộ rằng - Mơ lo sợ có người biết chuyện hai đứa thân nhau, nhất là thằng Thân con mụ Lọt bán cháo vịt. Mơ nói:
- Mình đi chơi riêng như ri, thằng Thân mà biết được, thế nào cũng bị nó chọc.
- Mơ đừng sợ, mình đi làm việc cho Ủy ban, nếu nó chọc tôi sẽ trình lên chú Trưởng đội!
Mơ không yên tâm lắm nhưng cũng gật đầu. Mơ cũng muốn có những giây phút bên tôi mặc dù chúng tôi chưa biết tâm tình như các anh chị tuổi mười bảy, mười tám, nhưng riêng tôi, tôi rất mong có những buổi gặp gỡ như hôm nay. Tôi chắc chắn Mơ cũng có niềm ước mơ như tôi vì mỗi lần gặp nhau, Mơ rất là hạnh phúc và tỏ ra bịn rịn khi chúng tôi phải chia tay!!!
Ở một làng quê hẻo lánh và nghèo khó như làng tôi thì tuổi trẻ chúng tôi, chẳng có gì để giải trí ngoài thú vui hồn nhiên của tuổi thơ. Sách báo thì chẳng bao giờ có, mà nếu có thì người lớn tuổi đọc đến độ nhàu nát mới tới phiên tuổi nhỏ như chúng tôi. Radio thì họa hoằn lễ lạc lớn Xã mới mở cho dân nghe chung. Văn nghệ thì không có chi ngoài những ngày hoàn tất mùa gặt hái với những buổi hò giã gạo hay hò đối đáp của người lớn mà chúng tôi chẳng hiểu được bao nhiêu qua những đêm hò như vậy.
Dù hai chúng tôi đã hết sức cẩn thận thế mà Thân, cũng đã biết chuyện và đã đặt một bài vè rồi truyền lại cho lũ trẻ trong làng chọc tôi và Mơ. Thân, Mơ và tôi đang học lớp nhất thì cha của Thân mất vì ăn phải nấm độc. Tang ma xong thì Thân phải ở nhà phụ mẹ giết vịt, vặt lông để nấu cháo. Thân còn phải gánh cháo ra đường cái cho mẹ bán. Vì là con một, mụ Lọt rất nuông chiều Thân cho nên Thân rất ngổ ngáo. Thân thường làm vè “Cặp đôi” bày cho bọn chăn trâu hát để phá những người mà nó ghét. Mơ và tôi dù không bị nó ghét những cũng đã là mục tiêu chọc ghẹo của nó.
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè rủ rỉ
Biết chắc thằng Thỉ
Đố với con nào?
Cả lũ chăn trâu la lớn:
Con Mơ hàng xén…
Tôi và Mơ không khỏi mắc cở khi bọn chúng nó tụ lại hát bài vè do Thân cầm đầu. Tôi cố nén tức giận và tìm cách trả thù.
Mùa Đông qua và Tết đến cùng với những cơn gió lạnh buốt da cắt thịt dù ngoài kia trời vẫn nắng, cái nắng của những ngày đầu xuân quá dịu không lấn át nổi cái buốt giá của tiết trời mùa đông còn sót lại.
Nhân ngày đầu Xuân, cả lũ chúng tôi xúng xính và hân hoan với quần áo mới, đầu tóc ngắn gọn cùng người lớn đi cúng đình hay chùa. Có đứa đi guốc không quen phải kẹp nách hay cầm tay. Sau đó chúng tôi theo cha mẹ đi thăm, chúc Tết hàng xóm hay bà con ở những làng lân cận. Dù nghèo đến đâu nhà nhà cũng có xôi thịt, bánh tét và bánh mứt các loại. Đặc biệt trong ba ngày Tết chúng tôi không bị la rầy, dù có lỗi lầm gì cũng được tha thứ. Ai ai cũng hớn hở tươi cười hỏi han nhau như lâu lắm rồi không gặp, nhờ vậy mà họ quên đi những nhọc nhằn lam lũ suốt năm bên nhau. Bọn trẻ chúng tôi cũng tự nhiên đoàn kết, không gây gỗ trêu chọc nhau như ngày thường. Tôi và Thân đánh xì lát bằng bộ bài nhỏ cũ rích, nhờ có trí nhớ tôi đã thắng Thân nhiều ván, bao nhiêu giây thun mà Thân gom nhặt nhiều ngày đều thua sạch, được thể tôi cho Thân đánh thiếu nợ cho đến lúc mụ Lọt gọi nó về thì số nợ mấy trăm sợi thun tôi bắt buộc nó phải trả trong vòng một ngày. Tôi đưa ra điều kiện mà khả năng của Thân không thể nào thực hiện được là cứ mỗi ngày nếu chưa trả đủ số thì nợ tăng gấp đôi. Ít lâu sau Thân nợ tôi cả vốn lẫn lời trên năm vạn sợi thun. Được dịp trả thù Thân về tội đặt vè trêu tôi và Mơ, cứ gặp Thân, bất cứ ở đâu tôi cũng đòi nợ. Tôi biết nó sợ Mụ Lọt đánh về tội bài bạc nên tôi dọa sẽ đến nhà hắn đòi nợ, hắn thường năn nỉ tôi đừng làm thế. Tôi nói:
- Muốn tau không đến nhà mi đòi nợ thì từ rày về sau mi không được đọc bài vè tau với Mơ, tau sẽ trừ cho một vạn, hễ tau nghe mi hoặc bọn chăn trâu đọc nữa tau sẽ tăng thêm một vạn.
Thân sốt sắng hứa và kể từ đó bài vè đi dần vào lãng quên! Dù vậy số nợ vẫn mỗi ngày một chồng chất. Thân trở nên ngoan ngoãn đối với tôi. Có lần tôi thèm thịt vịt nên bảo nó:
- Mi lấy cho tau cái đầu vịt tau trừ hai vạn
- Được, sáng mai chờ tau gánh cháo qua cổng Đình tau sẽ đưa đầu vịt cho mi
Cứ như vậy lâu lâu thằng Thân lại dấu Mẹ lấy đầu vịt lận vào lưng quần đùi, hẹn nơi trao cho tôi, có khi thì cái chân vịt khi thì một miếng huyết nhỏ bọc lá chuối cũng được trừ vài vạn sợi thun vậy mà nợ cũng lên tới mấy triệu. Một hôm tôi đi ngang qua nhà Thân, tôi nghe tiếng mắng chửi của mẹ nó – mụ Lọt đã nghi nó ăn vụng vịt làm mụ mất bán cho mối nhậu, Thân đã bị đòn làm lòng tôi xót xa, thương nó vô cùng.
Ngay sau khi Thân chịu điều kiện thôi không hát vè chế diễu tôi và Mơ thì tôi đã vội vã khoe với Mơ rằng: “Chúng nó sẽ không bao giờ chế diễu Mơ và tôi nữa.” Rồi tôi kể cho Mơ nghe món nợ giây thun của Thân. Mơ khuyên tôi:
- Đừng lấy lời cắt cổ, ác quá, mai sau lấy vợ đẻ con sẽ có tật!
- Vì nó đặt vè, tui mới làm vậy. Tất cả chỉ vì Mơ!
Mùa xuân bình yên đến với tôi và Mơ, tôi xa làng, xa bạn đi học may cũng gần tám tháng. Quán may của chú Duật cách làng tôi khoảng sáu cây số. Quán của chú chỉ là một cái quán vách nứa lợp tranh, cửa mở ra đường cái ngay ở ngã ba nhà thờ có tháp chuông cao, có sân rộng lát gạch Tàu. Nhà thờ tọa lạc trên mô đất cao, có nhiều tam cấp đi vào thánh đường, trong ấy có nhiều ghế dài đủ chỗ cho vài trăm tín đồ khi đi Lễ mỗi sáng Chủ nhật. Ngày thường cửa nhà thờ đóng kín phíatrước, sân vắng lặng. Cha xứ và bà Xơ ở hai dãy nhà phía sau. Những bậc thềm mát lạnh đó là nơi tôi thường ngồi sau bữa cơm chiều. Tôi ngồi trên bậc thềm cao nhất, mặt hướng về làng với bao nỗi nhớ. Nhìn hàng cây dương liễu con con, ẻo lả uốn mình theo chiều gió. Tôi nhớ Mẹ , nhớ chị, nhớ O Mơ và cả lũ chăn trâu thường phá phách xóm làng. Chỉ sáu cây số sao tôi thấy xa xôi quá. Mỗi lần về nhà là phải chờ ngày lễ, Tết hay giỗ kỵ.
Chú thợ Duật luôn luôn khó khăn và nghiêm nghị, thường hay nhắc nhở tôi: “Học nghề thì phải chăm chỉ, cần mẫn và kỷ luật”. Ấy vậy mà tám tháng trôi qua tôi chưa hề được cầm cây kim, sợi chỉ cho bài đơm khuy, nút, huống hồ gì đụng đến máy may Singer có bàn đạp.
Hôm ấy tôi đến nhà thờ sớm hơn mọi khi, chờ cha Xứ cho nghe radio, một Bà Xơ bước ra khỏi phòng thấy tôi một mình mặt buồn xo, lên tiếng hỏi:
- Em ở mô mà ngồi đây sớm vậy?
- Dạ em học may ở nhà chú Duật.
- Em con ai, ở xóm nào trong làng nầy?
- Dạ em không phải dân làng nầy, em là con bà Phó làng Hà Trữ.
Bà Xơ, vui hẳn lên nói:
- Ủa, vậy là em có chị tên Liệu phải không?
- Răng (Sao) Ma Xơ biết? Chị Liệu em ở tận trên Huế!
Xơ Hiền là bạn của chị tôi thuở còn nhỏ, cùng học và cùng đậu bằng Yếu Lược. Lớn lên mỗi người một ngã. Xơ Hiền biết cả mẹ tôi. Xơ hỏi thăm rất nhiều chuyện. Xơ nhìn tôi đăm chiêu và lộ vẻ cảm thông cho hoàn cảnh của tôi sau biến cố ba tôi mất. Từ hôm đó Xơ Hiền thương tôi lắm, cứ mỗi lần mon men đến nhà thờ nghe radio là người cho tôi một gói nhỏ sữa bột, Xơ ưu tiên cho tôi ngồi trước một đám trẻ ngoan ngoãn nghễnh đầu vểnh tai nghe tiếng nói, tiếng hát phát ra từ chiếc máy radio kỳ diệu.
Tám tháng trôi qua mà tôi vẫn chưa học được gì của nghề may vì tôi đang ở trong năm thứ nhất phải quét nhà, dọn dẹp, phụ nấu cơm, thỉnh thoảng giữ em bé cho thím Duật đi chợ, công việc thong thả nhất và cũng khó nhất là đi đòi nợ những khách hàng mặc áo gần rách mà tiền công may cũng chưa trả. Năm thứ hai làm khuy nút và chùi rửa máy may! Năm thứ ba học đo cắt và may. Năm thứ tư có thể ra nghề sắm máy riêng. Tôi đã tâm sự cùng Xơ Hiền những năm dài tôi phải trải qua trước khi trở thành chú thợ may, điều khiển được máy may thành thạo.
Không hiểu Xơ Hiền, thảo luận việc học hành của tôi với mẹ và chị tôi lúc nào mà hôm về thăm nhà nhân ngày giỗ ông nội, mẹ tôi hỏi:
- Con có muốn lên Huế học chữ nữa không?
- Mấy anh ăn học đã khó khăn, thêm con nữa sao chịu được!
- Mạ và chị Liệu đã nói chuyện với Xơ Hiền, Xơ hứa sẽ giúp chỗ ăn và chỗ ở và các phương tiện học hành. Ngoài ra có mạ và các anh chị lo thêm, miễn sao con thích học!
Gần một năm rong chơi, hôm lên đường đi học nghề, tôi cảm thấy tôi đã trưởng thành, đã bắt đầu biết lo tương lai và công việc của một ông chủ quán may, với bao ước mơ vẽ vời trong trí óc. Từ việc dựng quán may đầu tiên trong làng, đến việc cưới Mơ làm vợ. Hình ảnh hai đứa chiều chiều chở nhau trên xe đạp hiệu Sterling trên đường cái quanh làng, lên chùa xuống chợ. Ôi hạnh phúc biết bao? Tôi muốn từ chối việc học chữ.
- Con lớn rồi vào đệ thất trong lúc lớp bạn của con đã lên đệ lục, đệ ngũ, tôi nói.
- Được Xơ Hiền giúp đỡ, mạ muốn con đi học thêm nữa, bằng Tiểu học thì thấp lắm. Thấy con bấp bênh mạ cũng buồn. Lên Huế con được gần mấy anh chị. Thương mạ con phải đậu Đíp Lôm, Tú Tài mới được.
- Dạ khi nào con đi được? Như vậy là con học nghề dở dang rồi!
Mẹ tôi cười và giải thích cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương, trìu mến:
- Tám tháng học nghề mà con chưa biết cầm kim thì có gì mà dở dang. Ngày mai mạ sẽ qua xin chú Duật cho con nghỉ để đầu hè con đi. Bây giờ chuẩn bị là vừa.
Thế là đời tôi đã thay đổi, do tình cờ, do buổi gặp gỡ giữa tôi và Xơ Hiền mấy tháng trước đây tại sân nhà thờ. Bây giờ tôi lại phải hình dung và xếp đặt cho tương lai của mình theo chiều hướng mới, ước mơ mới trong hoang mang, lo sợ. Tôi lo sợ vì sắp sửa phải sống và hội nhập vào nếp sống văn minh của kinh thành đô hội. Lòng tôi cũng rộn ràng buồn vui lẫn lộn. Tôi buồn vì nghĩ tới Mơ, tôi sắp sửa xa Mơ, dù đường xe đò cũng chỉ khoảng mười hai cây số nhưng tôi cứ ngỡ như phải rời Mơ để đi lên Huế đường xa vời vợi…
Chiếc đò khách đi An Cựu có mui che ghé bến sông làng tôi, Xơ Hiền với tôi cùng vài ba người nữa ngồi suốt tám tiếng đồng hồ xuôi giòng Hà Giang. Đến An Cựu thì trời đã sẫm tối, ánh đèn điện tỏa xuống sáng rực trên đường, mắt tôi lửng lơ với cảnh vật lạ, tai nghe lanh lảnh – “Mì khoanh mì xíu mới ra lò” hoặc “Chè đậu xanh đậu ván, bánh tráng chè kê…” v.v. thật là vui tai, người và xe qua lại thật tấp nập dù đây mới chỉ là Phố Hữu Ngạn mà đã ồn ào như vậy, phía bên kia cầu Tràng Tiền thì nhộn nhịp biết bao. Nhìn cảnh nghĩ tới mình, lòng tôi bỗng chùng lại vì lo âu cho cảnh sống mới, và nhớ cảnh sống cũ ở quê nhà.
Tối hôm qua, trước khi tôi rời làng lên Huế học, Mơ dành cho tôi suốt buổi tối, sau buổi cơm chiều, hai chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi sánh vai nhau đi khắp các con đường trong làng mà lòng buồn rã rượi. Mơ dặn dò tôi đủ thứ, từ việc học, ăn ngủ, đi đứng coi chừng xe điện (xe hơi). Nàng khuyến khích tôi phải ráng cho qua Trung Học Đệ Nhất Cấp. Có khi Mơ nói những chuyện bâng quơ, hàm ý tôi sẽ thay lòng đổi dạ khi tiếp cận với văn minh thị thành mà quên làng mạc, quên đi những kỷ niệm với Mơ – Kỷ niệm những đêm trăng sáng chúng tôi cùng nhau tập hát ở sân Chùa, những khi phụ việc cho văn phòng thôn và nhiều nhiều nữa…
- Thế nào tui cũng học cao, tập lái xe đạp giỏi. Tui sẽ tự đạp xe về thăm Mơ.
Miên man theo giòng suy tư, Mơ không trả lời thẳng vào điểm tôi tâm tình cùng nàng. Mơ nói:
- Sau nầy học xong Thỉ định làm gì?
- Tôi muốn đi lính, muốn làm Trung sĩ truyền tin, vì sẽ có người theo mang máy có ăng-ten lá lúa oai vô cùng
- Mơ lại muốn Thỉ làm thầy giáo!
- Làm Trung sĩ có quyền hạn, có áo nhà binh mặc đẹp, hơn nữa dễ lấy vợ đẹp như anh Tự của làng mình.
- Trên Huế con gái đẹp, không như ở quê mình!
Tôi hiểu ý Mơ, và tôi cũng muốn nói điều gì đó cho Mơ hiểu rằng với tôi, Mơ đẹp hơn bất cứ cô nào mà tôi có thể gặp nơi chốn thị thành. Thật ra cả hai chúng tôi không biết chuyển đạt ý tưởng thân thương của mình cho nhau bằng ngôn từ nào trong lúc nầy; khi mà trạng thái lo âu, bịn rịn và sợ hãi đang chập chùng trước mắt. Tim chúng tôi tuy cũng biết giao động, hồi hộp và ngập ngừng nhưng vì chúng tôi trưởng thành bằng bản chất nông thôn non dại, có văn hóa đâu mà tìm được cách diễn đạt cho thanh thỏa lòng mình.
Cậu học trò nhà quê lạc vào chốn thị thành, hơn bạn đồng lớp đến 2 tuổi, rốt cuộc cũng vượt qua được lớp Đệ Thất. Dù rằng tôi phải chịu đựng biết bao nhiêu là khó khăn, thiếu thốn; ban đêm phải đi bộ hơn một cây số để được anh kế tôi dạy thêm. Anh ấy học đệ tứ và được chị cả nuôi nấng ăn học. Tôi sợ nhất là môn Pháp văn, nhưng rồi cuối năm cũng lên lớp với số điểm cao.
Ba tháng hè năm đó, tôi quyết tâm học xong chương trình đệ lục. Bỏ trường cũ sang trường mới học lớp đệ ngũ. Từ dạo đó tôi không còn bị bạn bè chế diễu nữa. Tôi vẫn ở trọ nhà anh Phú, anh của Xơ Hiền, công chức sở Công Chánh để dạy kèm cho bé Khôi, học lớp ba. Bé Khôi là đứa con duy nhất của anh Phú, và chị Cẩm thư ký sở Bưu Điện. Trong nhà còn có chị Tâm giúp việc lo cơm nước, chăm nom nhà cửa và đưa đón bé Khôi học ở trường Tiểu học gần nhà. Trừ chị Tâm tôi ăn cơm chung với gia đình anh chị Phú. Ngoài việc dạy kèm và nhắc nhở Bé Khôi học hành trước khi đi ngủ, thỉnh thoảng tôi cũng phụ dọn dẹp trong nhà, lau chùi chiếc mobylette cho anh Phú hoặc tưới cây.
Đã gần hai năm, nhân ngày Tết Nguyên Đán, tôi mới được về quê ăn Tết với gia đình. Tôi trở lại làng với tâm trạng như đã ra đi lâu lắm. Dáng dấp của một cậu học trò trung học thành phố, áo sơ mi trắng bỏ vào quần kaki dài mầu xanh, thắt lưng da, đầu đội nón cối trắng, chân đi dày Ba ta vải có dây cột thắt nơ, tay khệ nệ ôm chiếc cạc táp da cũ của anh Phú đựng những thứ như: áo quần, sách vở, quà bánh và cuốn tự điển Pháp Việt dày cộm cho có vẻ người học hành quan trọng
Ngoài niềm vui đoàn tụ với Mẹ và chị, tôi nóng lòng được gặp thăm Mơ. Bọn trẻ trong làng xôn xao tin tôi về ăn Tết, Mơ biết, nhưng tôi không thấy Mơ đi gánh nước qua nhà như những năm về trước. Tôi nghĩ rằng Mơ cũng đang chờ mong gặp tôi, vì vậy tôi tìm đến quán hàng để gặp nàng.
Sáng hôm ấy, ngày cuối đông, không mưa nhưng tiết trời khá lạnh giá. Tôi ăn mặc chỉnh tề, áo nỉ lạnh có phẹc ma tuya, tay cầm gói quà dành cho Mơ, bọc giấy kiếng màu xanh, ngoài gói kẹo Nouga, cây bút bi có nút bấm lên xuống, tôi còn tặng Mơ một kẹp tóc có đính 2 cánh bướm mầu vàng bằng nhựa, tất cả tôi mua từ chợ Đông Ba từng món chuẩn bị từ hơn ba tháng trước. Tôi đến quán thăm Mơ một cách tự tin. Thấy tôi vào đầu ngõ, Mơ vội đưa tay vuốt tóc, hất nhẹ ra phía sau lưng. Tôi thấy Mơ lớn hơn và đẹp mặn mà, đúng dáng dấp của một cô gái tuổi dậy thì “trăng tròn 16”. Mơ cười, nụ cười vừa mừng vừa e thẹn, má Mơ đỏ ửng.
- Mới về à?
- Về chiều hôm qua, răng không thấy Mơ gánh nước giếng buổi chiều nữa?
- Bộ lên Huế quên hết rồi, mùa nầy hứng nước mưa, Mơ cười nhẹ.
Tôi đặt gói quà lên kệ hàng trước mặt Mơ
- Tặng mơ quà Tết của Huế đó!
Mơ không nói gì, mắt nhìn lơ đãng ra trời xa! Mới gần hai năm mà tôi thấy Mơ thay đổi hẳn. Tóc Mơ dài hơn. Mơ mặc chiếc áo bà ba trắng bó sát người, thân hình nẩy nở, cái nẩy nở tuyệt đẹp của cô thôn nữ làm cho tôi ngẩn ngơ, hồi hộp.
- Chỉ còn mấy ngày nữa Mơ mười bảy tuổi rồi!
- Vẫn còn nhớ tuổi nữa à!
- Gì tôi cũng nhớ, đi xa ngoài nhớ mạ, tôi chỉ còn nhớ Mơ nữa mà thôi!
- Có thiệt không? Hay là ở Huế về nói theo kiểu khác?
- Thề, nếu tui nói khác thì…
- Đừng nói thêm – Mơ ngắt lời tôi như sợ thần linh trừng phạt kẻ nói dối với lời thề!
Sáng mồng hai Tết, mẹ dặn tôi phải đi theo chúc Tết chú bác họ hàng trong làng, có lẽ mẹ tôi muốn tôi cùng đi để bà con biết rằng – Thằng Thỉ, con út nhà tôi cũng được học trung học trên Huế đó. Đến đâu, gặp ai, họ cũng khen tôi đã đổi khác, khen giỏi. Họ hy vọng vào tương lai tôi biết nói tiếng Tây để mai mốt làm thầy thông ngôn, hoặc thầy giáo học v.v. Khi đi ngang qua nhà Mơ, mẹ Mơ mời chúng tôi vào uống chén trà xuân. Tục lệ ở quê tôi thì hễ sang năm mới mọi xích mích, hờn giận đều rũ sạch trước khi lễ Giao Thừa. Ba ngày Tết gặp nhau ai ai cũng mừng rỡ, chào hỏi và chúc tụng nhau như cả năm chẳng bao giờ gặp mặt. Con cháu dù có lỗi lầm gì cũng tha thứ bỏ qua, không la mắng như ngày thường. Mẹ tôi ngồi trò chuyện trên bộ phảng gỗ trải chiếu hoa còn mới. Trên khay bày biện các loại bánh mứt, người lớn nói chuyện mùa màng, chuyện mua bán còn tôi với Mơ đứng dưới cây trứng cá kể chuyện trong hai năm qua cho nhau nghe.
Mơ mặc áo sơ mi màu hồng, quần Mỹ A đen bóng. Gương mặt Mơ vui hẳn lên. Tôi với tay hái những trái trứng cá chín hườm đưa cho Mơ. Mơ đòi nghe chuyện của Huế. Thỉ nói:
- Lớp Đệ ngũ của Thỉ có con gái học chung tên Nga, Tên Tuyết tên Nhung, bọn con trai cùng dãy bàn có Hưng, Tuấn và Dũng.
- Trên nớ nhà giàu và văn minh nên tên của họ đều hay cả, Mơ nói.
- Tên hay nhưng học không giỏi lắm, mà tên của Mơ cũng hay lắm chứ!
Tôi không nhắc đến tên những cô gái cùng lứa như O Gạo, o Hỏn, o Thẻo hay bọn thằng Thân, thằng Tạ cùng đám con trai trong làng…
- Thôi đi, dù gì mình cũng nhà quê, làm sao so sánh với người trên Huế.
- Những ngày ở trên nớ, trừ những lúc đi học lúc nào tui cũng nghĩ đến Mơ, trông cho mau Tết, mau hè về thăm là thỏa lòng lắm
Mơ cúi đầu, mắt nhấp nháy không nói gì.
Tôi tiếp:
- Mơ à, tôi thấy tôi như đã ưa Mơ rồi, ưa từ hồi xa Mơ đi học nghề may cho đến giờ, không biết Mơ có nghĩ như vậy không?
Mơ lại quay đi chỗ khác, im lặng. Tôi nghe từng tiếng thở dồn dập nơi Mơ. Mơ đón nhận nơi tôi những gì thầm kín khác. Nói được bấy nhiêu tôi như trút được gánh nặng trong lòng. Không hiểu sao tôi mạnh dạn nói với Mơ những điều không dự ước. Nhưng đó là chân tình của cậu học trò nhà quê tuổi mười sáu. Cả hai chúng tôi đều im lặng. Không khí ngột ngạt bao trùm, đúng lúc mẹ tôi đứng dậy cáo từ. Tôi quýnh quáng chỉ kịp nói nhỏ đủ cho Mơ nghe:
- Đầu năm, xin ông bà phù hộ cho cả hai.
Mối tình đầu chớm nở. Mơ nghiễm nhiên hiện diện trong tim tôi – Mối tình khởi nguồn từ thời thơ ấu.
Những ngày Tết qua mau, tôi trở lại Huế với lớp học trong nỗi buồn mênh mang, ê chề nỗi nhớ. Sáng mồng sáu tôi đi, Mơ đứng chờ tiễn tôi ở ngã ba đường xuống bến đò, Mơ mặc áo thường, kẹp tóc với chiếc kẹp có đôi cánh bướm màu vàng của tôi tặng hôm nào. Mơ dáng vẻ buồn, chia tay tôi. Mơ không nói tiếng nào, chỉ dúi vào tay tôi một miếng giấy xếp nhỏ rồi vội vàng quay đi vào ngõ làng không quay lại. Tôi chỉ kịp nhìn được đôi mắt long lanh nước mắt vòng quanh – Vậy là Mơ đã khóc, tôi liên tưởng có điều gì bất an. Tôi lặng lẽ mở tờ giấy ra đọc. Nhìn nét chữ nắn nót cẩn thận vỏn vẹn năm chữ ”Mơ cũng ưa rồi đó”. Lòng tôi bỗng rộn ràng. Tim tôi thổn thức, bước xuống đò lòng bâng khuâng, nhìn lũy tre làng xa xa che khuất những mái tranh, tôi nghĩ đến những người thân yêu và Mơ đang buồn. Tôi tự thấy mình đã lớn hơn bởi giòng chữ Mơ cho – Vậy là đã có tình yêu, mặc dù chưa được nghe hay đọc chữ yêu lần nào. Sự trang trải tình cảm thật đơn sơ, mộc mạc. Chữ “Ưa” thật dễ thương. Với tôi chữ “Ưa” lúc đó là nhựa sống là ý nghĩa vô cùng khởi đầu cho tình cảm sâu kín nhất của đời tôi và Mơ. Chữ “Ưa” đã giúp tôi với Mơ thể hiện và chuyên chở cho nhau một thứ tình cảm chân thật, trong sáng và tràn trề hy vọng ở tuổi mới lớn, cho đến bây giờ tôi vẫn yêu mãi chữ “Ưa”.
Xong bậc trung học thì làng tôi cũng tản mác bởi chiển tranh, bởi bom đạn, có kẻ vào bưng, kẻ xuôi mạn vào Nam. Mơ cũng theo gia đình rồi lưu lạc không biết phương nào. Tôi khoát áo lính, chúng tôi mất nhau từ đó. Cuộc sống đổi thay, con người chỉ còn nghĩ tới sống và chết từng giờ, từng ngày. Mở mắt ra là phải đối đầu với những khó khăn, nhọc nhằn của xã hồi, tôi mất đi những ước mơ hồn nhiên của những ngày bên Mơ. Tôi nhìn trăng sao để ôm mộng trở thành người lơ xe đầy quyền hạn với hành khách, hay ông chủ quán may độc quyền nơi làng mạc hẻo lánh xa xôi, cao hơn là mơ thành ông trung sĩ truyền tin có lính hầu mang máy dương cao cây ăng-ten lá lúa hay êm đềm nhất là một mái ấm trong làng xóm quê mùa kia với những chiều chở Mơ trên chiếc xe đạp hiệu sterling có cái líp kêu lách cách dạo quanh làng. Hết rồi tuổi thơ đầy hy vọng.
Đã gần nửa thế kỷ, tôi đưa các con trở lại quê nhà cho chúng biết quê nội – Hà Trữ - tên làng và cũng là tên của hai đứa con lớn của tôi. Tôi cố tình đặt tên con như vậy để lỡ mai sau giòng đời có đưa đẩy đến đâu cũng nhớ về nơi có những kỷ niệm khó quên, nhớ cuộc sống có ít nhiều bất hạnh của thuở ngày xưa còn bé. Đứng nhìn lại con đường, những ngõ ngách quen thuộc ngày nào không còn nữa. Hàng cây bạch đàn trồng thay cho lũy tre xanh, cao nghều nghệu rũ đầu đong đưa theo gió, nhìn những căn nhà ngói đỏ mới xây còn phảng phất mùi vôi, ký ức tuổi thơ lại trở về ẩn hiện hình ảnh kham khổ của mẹ tôi, và đâu đây còn có bóng dáng của Mơ với suối tóc dài thon thả trên lưng có chiếp kẹp cánh bướm nhựa màu vàng
Sau lưng tiếng nói chuyện thì thầm của con gái tôi, nghe thoang thoảng câu: “ Why is dad’s birthplace so miserable?!”
Người Lính Về Sông Hương
Chiến tranh trải dài trên đất nước ta, với bao đổ nát đau thương. Thế giới đã tốn hao bao giấy mực để nói lên cái tận cùng khổ ải mà nhân dân ta đã gánh chịu; trong cái tận cùng đó, chữ nghĩa chỉ nói lên được cái tương đối bằng diễn đạt văn chương, cái tuyệt đối vẫn là niềm đau tột cùng, là vết thương không dứt trong lòng mọi người, mọi thế hệ của toàn dân Việt. Bằng niềm đau đó, Hoàng trở về với lứa tuổi ngoài 20, thời điểm của một người lính trẻ với nỗi buồn xót xa bởi chiến tranh, nỗi bàng hoàng của một học trò cũ trở về đón tin thầy mình đã vĩnh viễn ra đi, bằng cảm xúc của cái ngày khoác áo trận mà lòng còn thư sinh, để rồi hôm nay ngoái nhìn lại những tháng ngày buồn bã trôi qua, tóc nhuốm bạc, vẫn không xóa đi được hình ảnh đau thương của dân tộc trong lòng Hoàng ...
Hôm 28 Tết Mậu Thân đơn vị Hoàng đóng cách thị xã Quảng Ngãi 28 km về hướng Nam, Hoàng đưa Khánh, em gái mình, một giáo viên tiểu học quận lỵ ra ga xe lửa để về Huế ăn Tết với Mẹ, vui đón Xuân cùng các em. Cũng như hai năm trước, từ ngày về trình diện đơn vị, Hoàng chẳng được về ăn Tết với gia đình. Lính độc thân đa số là vậy!
Sân ga chiều nay rất nhộn nhịp, kẻ tiễn người đi, tiếng nói, tiếng cười rộn rã pha lẫn những giọng rao hàng lanh lảnh cũa những cô bé mời gọi ơi ới dọc hông tàu, Hoàng cảm thấy lòng vui rộn ràng như sắp được con tàu đưa mình về với mái ấm gia đình, đón Xuân như ngày nào, để hưởng được những phút giây hạnh phút bên Mẹ, bên em, Hoàng miên man với bao hình ảnh cũ trở về trong trí óc, bất chợt Khánh hỏi Hoàng:
- Anh, không viết thư cho chị Chi ?
- Không !
Hoàng trả lời cộc lốc, Khánh tiếp:
- Bộ giận nhau hay anh làm biếng?
- Làm biếng thì có, chứ chẳng có gì mà giận nhau. Khánh về nếu Chi có hỏi đến anh thì Khánh nói anh vẫn vậy!
- Vẫn vậy?
- Ừ, vẫn vậy!
- Vẫn vậy là sao?
Hoàng ngập ngừng, không trả lời và cũng chẳng biết giải thích thế nào cho cô em hiểu. Chẳng lẽ vẫn vậy là vẫn thương vẫn nhớ. Hoặc nhắn nhủ rằng: Ráng chờ cho đến khi nào Hoàng giải ngũ trở về mới tính chuyện yêu đương, chuyện chồng vợ; còn hiện tại, tuổi trẻ, chỉ tính chuyện súng đạn, chuyện đánh nhau đôi khi phải tính chuyện chết như thế nào cho nó “nhẹ tựa lông hồng“ nữa chứ. Nghĩ vậy mà thấy tội cho Chi – cô nữ sinh Nguyễn Du thật hiền hậu nết na lại yêu lính, mà lại lính của một binh chủng ít nhiều cũng được truyền miệng là dữ, loại lính chuyên đánh trận, gái Huế mà nghe ba chữ Biệt Động Quân thường có vẻ hơi ngán, hơi sợ dù trong lòng chẳng biết ngán sợ điểm nào! Cứ nhìn bộ đồ rằn ri, phù hiệu con cọp nhe 13 cái răng, đầu đội mũ màu máu khô, cộng thêm những huyền thoại - nào là đánh giặc không sợ chết, đánh lộn chẳng thua ai, ăn chơi thì lả lướt, ôi thôi đủ thứ, nhưng thật sự thì khác, như Sơn như Hoàng vẫn dễ thương, vẫn lịch sự, vẫn tán gái có duyên như thời còn sinh viên vậy, nhất là Sơn đẹp trai, con nhà giàu, học trường Tây, đi sĩ quan Đà Lạt, cũng BĐQ, hiên ngang hùng dũng như ai, mặc dầu gia đình thừa khả năng lo cho về những nơi nhàn hưởng. Nhờ khí phách đó mà Sơn được hoa khôi Đại học Văn khoa chiếu cố cho đến khi ký chung “Hiến chương yêu“ để rồi chịu đựng bao nhiêu khắc nghiệt của thời cuộc, một người vợ trẻ đợi chồng ngoài mặt trận, một người đàn bà vượt qua bao gian lao và để rồi mười mấy năm giữ thủy chung khi chồng trong nguc tù cộng sản, và tiếp nối những chuỗi ngày còn lại chia sẻ nỗi buồn lưu vong bên chồng với bao lo toan trong cuộc sống xứ người.
Đứng bên cửa sổ toa tàu, Hoàng rít một hơi thuốc dài, ngước đầu nhìn Khánh, nhắn nhủ vài điều cần thiết, ngoài Chi ra Hoàng còn dặn Khánh:
- Nhớ gặp anh Sơn, anh Đính anh Truồi, bảo họ thường xuyên đến nhà thăm Mẹ nhé!
Tàu từ từ chuyển bánh rồi khuất dạng sau khúc quanh, Hoàng mới lái xe về đơn vị mà lòng suy nghĩ miên man, nhớ nhà, nhớ Mẹ, nhớ Thầy, nhớ trường cũ, nhớ lại tiếng nói của Chi năm nào còn văng vẳng bên tai “BĐQ mấy anh oai hùng nhưng ghê lắm đó”. Không biết Chi cho rằng ghê là ghê theo ý nghĩa nào? Gió thổi mạnh mang theo chút nắng và bụi mù của vùng đất khô cằn cát đá… Trời Xuân đã về trên con đường nhỏ rạng rỡ rán chiều….
Thế là Huế đã được chiếm lại sau hai mươi mấy ngày khói lửa, bom đạn tàn khốc. Cùng với quân dân miền Nam, đơn vị Hoàng tham gia vài trận đánh quanh Tỉnh lỵ Quảng Ngãi, phối hợp với các Trung đoàn 4, Trung đoàn 5, sư đoàn 2 Bộ Binh, bẻ gãy âm mưu đánh chiếm Thị Xã của cộng quân. Sau khi đuổi được cọng quân về với rừng rú về với Trường Sơn âm u, Hoàng được Tiểu đoàn trưởng cấp phép về Huế tìm gia đình. Huế đón Hoàng bằng những hàng cây trụi lá, trơ thân nám cháy buồn rười rượi đứng giữa trời Xuân trong xanh. Chung quanh Hoàng Thành và từ những góc phố khói của những đám tro tàn vẫn còn bốc lên la đà. Huế bây giờ là Huế của hoang tàn đổ nát, Huế, nhà nhà đều chit khăn sô. Nhà Hoàng nay chỉ còn là đống gạch vụn. Đường Mai Thúc Loan, khu nhà của Mẹ Hoàng, đổ nát ngổn ngang những mái lều cất vội với những miếng tôn cháy đen. Mẹ và các em Hoàng may mắn bình an trở về sau bao ngày được bạn bè của Hoàng đưa vào lánh nạn trong Bộ Tư Lệnh Sư đoàn I tại Mang Cá. Tháng Giêng Huế lạnh nhiều, gió dù thoảng nhẹ, cũng đủ làm cho Hoàng rùng mình trước cái yên tĩnh đáng sợ. Chợ Đông Ba sầm uất ngày nào, không lấy một bóng người. Huế bây giờ giăng mắc đầy mùi tử khí. Đó đây văng vẳng tiếng than khóc của những oan hồn mới nằm xuống.
Hiển, bạn thời trung học, nay là giáo sư trường Đồng Khánh chở Hoàng thăm quanh Thành Nội, cảnh đổ nát điêu tàn trước mắt, cả hai cùng yên lặng liên tưởng những trận đánh chiếm lại từng con đường, từng góc phố của quân lực Việt Nam Cọng Hòa. Cố đô đã là bãi chiến trường mà chính nghĩa tự do phải dành lại được bằng máu, bằng xương và địch quân đã để lại biết bao mồ chôn sống tập thể quân cán chính và những người dân vô tội. Những cảnh cảnh bắt bớ trả thù dã man của bọn người vô lại đã làm tắt nụ cười của người dân Huế hiền hòa. Liếc nhìn những thây người thối rữa bên mương rãnh, vệ đường mà lòng Hoàng quặn thắt và nỗi căm hờn dâng lên đến bốc nhức đầu.
Hiển kể cho Hoàng nghe những cái chết thương tâm của bạn bè Hiến và Hoàng. Hoàng đã bật khóc khi Hiển kể chuyện về cái chết của thầy Điền, thầy Trần Điền, Thượng nghị sĩ đương nhiệm của Miền Nam Việt Nam đã bị Việt Cọng bắt đi vào những ngày đầu họ chiếm Huế (Ít lâu sau, gia đình của Thầy đã tìm được xác Thầy tại một khe nước ở Lao Bảo, sát biên giới Lào). Thầy Trần Điền đã dạy dỗ Hoàng và bạn bè của Hoàng suốt 6 năm họ theo học dưới mái trường Thiên Hựu. Một vị thầy khả kính, nghiêm khắc, với phong thái đức độ luôn luôn hiện rõ trên gương mặt của Người. Người luôn luôn xem học trò như con, thầy vừa dạy văn hóa vừa dạy cho họ đạo làm người.
Hiển kể lại có rất nhiều người cùng bị bắt một lượt đầu với thầy vào nơi tập trung và cho tơi nay chẳng thấy ai trở về. Ở đó Thầy tỏ ra rất bình thản, vẫn ngang nhiên nhận mình là Thượng nghị sĩ của Việt Nam Cọng Hòa, có lẽ thầy đã biết rõ sự tàn ác của bọn Cộng Sản để tiên liệu cho cái chết chắc chắn sẽ đến với mình, cho nên Thầy luôn luôn thể hiện và giữ phong thái đầy sĩ khí. Người không tỏ ra sợ sệt yếu đuối để trực diện với kẻ thù.
Nhớ lại hơn một năm trước Tết Mậu Thân, nhân một kỳ về phép tại Huế, Hoàng có dịp đến thăm Thầy trong bộ đồ lính, khi bước vào nhà, vừa cúi đầu chào Thầy, người bạn cùng đi chưa kịp giới thiệu thì Thầy đã lên tiếng:
- Hoàng đó hả? Con về lúc nào? Con đi lính BĐQ hả ? Thầy Cô cũng có một đứa đi BĐQ như con (sau này Hoàng mới biết anh ấy là một đàn anh cùng binh chủng trong Nam) Hoàng khâm phục trí nhớ của Thầy dù đã bao năm, Hoàng rời ghế nhà trường.
Hoàng cúi đầu thưa:
- Dạ con được tin Thầy vô Thượng Viện con mừng lắm
- Ừ, có chi mô con, thầy vẫn rứa, làm được cái chi cho Tổ Quốc, cho đất nước, cho đồng bào thì cứ làm, Thầy cũng già rồi, cái đám tụi con mới là chính đó.
Thầy ân cần hỏi Hoàng rất nhiều chuyện, về cuộc sống nhà binh, về các chiến trận. Như một thầy đồ ngày xa xưa, với giọng trầm buồn, và như nước mắt đang chạy vòng quanh đôi mắt già nua của thầy - Thầy phân tích tình hình đất nước, Thầy ưu tư trước hiểm họa Cộng sản. Và cho rằng: Việc đổ quân ào ạt của đồng minh vào miền Nam, sẽ làm cho cuộc chiến càng ngày càng thảm khốc hơn mà đồng bào ta là nạn nhân hứng chịu với nhiều thống khổ . . .
Thầy vẫn coi Hoàng là một cậu học sinh nhỏ bé như thuở nào cho nên thầy từ tốn dạy cho Hoàng phong cách sống dù ở trong hoàn cảnh nào. Với những lời răn dạy hôm đó, Thầy đã trang bị cho Hoàng một mớ hành trang đi vào cuộc sống ở thời buổi chiến tranh sau nầy.
Thầy từ tốn nói
- Tụi con còn trẻ đi vào đời, nếu không chọn cho mình một cách sống ý nghĩa, thì các con vào đó mà khởi đầu là ảo giác thì cái đích chỉ sẽ là ảo tưởng. Tuổi trẻ đừng háo thắng. Người chỉ huy phải nhớ rằng - thắng không kiêu, bại không nản. Khi ra ngoài ra xã hội, con còn phải học nhiều lắm đó, học ở cấp trên, học cả cấp dưới, học bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ ai cũng học, học để tổng hợp cái hay mà giữ làm vốn cho mình và phải biết những cái dở, cái hèn để loại trừ ra khỏi tư tưởng của mình. Ngày nào còn sống, còn chiến đấu là còn phải học đó nghe...
Hoàng không ngờ lần gặp đó, lời dạy dỗ đó lại là lời cuối cùng của Thầy cho Hoàng. Thế hệ của Hoàng đã mất đi một vị Thầy nhân hậu. Đất nước mất đi một kẻ sĩ, một nhân tài, suốt đời gắn bó với trách nhiệm, với tổ quốc giang sơn.
Nghiệm lại lời của thầy hôm gặp lần cuối Hoàng thấy rõ: Qua những bi thảm trong chiến tranh mà mọi người đã chứng kiến, riêng trận Mậu thân ở cố đô Huế và vùng phụ cận, Hoàng phát giác ra rằng miền Nam đã bị bán đứng từ lâu. Hơn mấy chục năm nồi da xáo thịt phải chăng chỉ những nguyên nhân mâu thuẫn sâu xa trong xã hội Việt Nam không thể hóa giải được. Những người tự nhận là mình có bổn phận với quốc gia dân tộc đã giải quyết sự mâu thuẫn đó bằng võ lực, nhưng thật ra đó chỉ là tham vọng ngu xuẩn của một số người làm tay sai cho ngoại bang, cho quốc tế vụ. Họ đã áp đặt một chủ thuyết độc tài đảng trị trên quê hương thân yêu của chúng ta mà một bên phải chiến đấu tự vệ. Bằng những ý nghĩ hiển nhiên đó thì chiến tranh ở Việt Nam hình như không lúc nào là không có những âm mưu sắp xếp từ bên ngoài mà chúng ta chỉ là những con chốt trên bàn cờ thế giới.
Do đó, Hoàng không lấy làm lạ thời Mậu Thân Huế, khi cầu Trường Tiền chưa bị VC phá sập, xe Việt Nam Cọng Hòa chạy qua thì bị bắn, xe Mỹ thì không, trong khi vùng phụ cận như Phú Bài, trung tâm huấn luyện Đống Đa bị hỏa tiễn 222 ly do Nga chế tạo, từ lăng Gia Long pháo kích tràn ngập thì phi trường Phú Bài chỉ cách trung tâm Đống Đa vài hàng rào kẽm gai máy bay Mỹ và hành khách vẫn lên xuống bình thường. Khi VC rút, trực thăng Mỹ mới tới lấy giàn phóng hỏa tiển 222 ly. Một câu hỏi nữa, thiết nghĩ cũng nên đặt ra với các cơ quan tình báo quân đội Hoa kỳ và đồng minh trải khắp Việt Nam bằng những dụng cụ, máy móc tối tân, thậm chí có cả hàng rào điện tử Mc Namara và VC ngang nhiên chuyển quân đánh mấy chục thành phố cùng một lúc mà chẳng nhận được một tin tức nào từ phía họ. Ngoài ra, khi quân đội Mỹ còn ở Việt Nam, hải quân Trung Cộng thản nhiên đánh chiếm trường sa, Hoàng sa, người tệ nhất cũng hiểu đã có sự đồng tình nào đó, bằng không hải quân Trung Cộng dù mạnh đến đâu cũng chẳng dám bén mảng tới gần đảo khi Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ thường xuyên có mặt trong vùng.
Tóm lại những phi lý kéo dài trong chiến tranh Việt Nam để lại cho dân Việt nhiều uẩn khúc, nhiều bi đát trước những mất mát lớn lao cho đến ngày nay vẫn mãi ôm nỗi đau thấm sâu trong tâm tưởng dù ở tuổi đã xế chiều nơi đất khách quê người, luôn luôn hướng về quê hương trong hoài bão trở về .
Hôm nay trong nỗi buồn vô hạn đó, cảm hoài về quá khứ, đặc biệt nghĩ về Huế, lòng Hoàng xót xa nhận biết mình chỉ sống với dĩ vãng. Hoàng muốn đốt một nén hương lòng trong không gian tĩnh mịch này bởi tin rằng Thầy Điền linh thiêng sẽ tiếp nhận lời nguyện của Hoàng…
“Xin Thầy phù hộ cho con, cho trí tuệ con mãi trong sáng trước cuộc sống đầy phức tạp này để nhớ mãi lời dạy của Thầy. Những lời giáo huấn của thầy sẽ mãi mãi nằm trong lòng con, dù con sống bất cứ nơi đâu, bất cứ xã hội nào và bất cứ ở thời điểm nào”
Biển Và Hồ
Trần Thế Luân thong thả bước ra khỏi nhà tắm, tâm trạng phấn chấn. Từ ngày biết Vũ Thế Phong, chính là nhà Sư hàng ngày vẫn đi bộ vào mỗi buổi sáng, trong khu Mobile Home nơi có người em gái của ông đang cư ngụ. Đã năm lần bảy lượt ông Luân gọi điện thoại thăm mà không gặp. Đến tận nhà gõ cửa mấy lần cũng không thấy. Bất ngờ tối hôm qua, chính Vũ Thế Phong gọi điện thoại cho Luân mời mai đến nhà Phong chơi uống trà.
Vừa thay quần áo ông Luân nghĩ, mới ngày nào, ba mươi tám năm trước, Trần Thế Luân, Vũ Thế Phong, Trần Nhật Phu tại phòng trà Queen Bee, trên lầu thương xá Eden Sài Gòn. Cùng đi với Luân hôm đó có cô vợ mới cưới được vài tháng và Duyên cô em gái thứ sáu của Luân. Trong một lần Phong đến chơi nhà Luân, sau đó kéo nhau qua nhà cụ than sinh của Luân, nhằm có giỗ, Phong tình cờ gặp Duyên.
Hai tuần sau gặp Luân, Phong nói:
- Gặp em gái ông tôi bị tiếng sét rồi, cô ấy dễ thương quá, tôi làm quen được không?
- Có gì khó đâu, tôi sẽ tạo điều kiện cho hai bên gặp nhau, Luân nói.
- Cô em của ông đang đi học?
- Duyên đang học y khoa, hình như còn hai năm nữa thì ra trường, Luân trả lời.
Do vậy mà có một đêm vui họp mặt tại Queen Bee. Vì là lần đầu tiên cho nên Luân rủ thêm Trần Nhật Phu, một bạn thân và cũng thân với Phong. Chủ yếu là để Phong và Duyên có dịp trao đổi với nhau. Luân còn nhớ rất rõ, vào lúc 11 giờ ca sĩ Carol Kim hát, có một vũ nữ phụ diễn, nhảy múa trong chiếc lồng chim, ăn mặc gần như lõa thể, đèn màu quay tít, nhạc đánh loạn xạ. Vợ Luân kêu nhức đầu, chóng mặt, đòi về ngay, vì vậy cuộc vui tan sớm, hai người chưa tạo được một sợi giây mật thiết nào!
Cuộc chiến ở Miền Nam mỗi ngày một khốc liệt, không ai có thể dự trù, mưu tính hay kế hoạch được gì, cứ theo giòng đời trôi… Bộ ba hợp rồi tan, mỗi người tiếp tục con đường của mình. Ba người bọn họ có chung một đặc tính, mà vì những đặc tính đó, họ dễ thân nhau khi biết nhau! Họ không phải là người có gốc gác là con nhà võ. Cả ba đều có vẻ lãng mạn, vì thời chiến họ mới nhập ngũ và thành sĩ quan để phục vụ đất nước. Phú, Luân và Phong cùng có tính cương trực không biết nịnh bợ, không biết luồn cúi hay chạy chọt - Họ chỉ phục tòng những người mà họ thực sự kính trọng. Nhưng con số nầy thì lại khá hiếm.
Giòng đời xô đẩy, cuộc sống bấp bênh, sáng đi chưa chắc chiều đã về – Sau những ngày gặp nhau chớp nhoáng ngắn ngủi ở Sài Gòn trước 30 tháng tư 75. Rồi sau đó họ ở đâu, lưu lạc ở phương trời nào, họ gánh chịu những gì sau cuộc bể dâu, nhà tan cửa nát thì chẳng ai nhớ đến ai!
***
Trần Nhật Phu, còn một năm nữa thì tròn bảy mươi tuổi, thời trai trẻ Phu là một thanh niên đẹp trai, học giỏi và rất thông minh. Anh từng là một học sinh đệ Nhị Cấp nhất môn toán được cử đi thi toán toàn quốc và đã đậu đầu. Nhưng khi vào quân đội Phu lại chậm chạp so với bạn bè cùng trang lứa. Anh được giải ngũ và làm việc với RMK, một công ty xây cất của Mỹ và sau đó làm cho tòa đại sứ Anh.
Trần Thế Luân lập gia đình sau khi bị thương trong trận bị phục kích ở rạch Đường Keo, con rạch cuối cùng ở mũi Cà Mâu. Sau đó được thuyên chuyển về vét mìn trên song Lòng Tảo. Năm 1966 Luân đột ngột cưới vợ trước sự ngạc nhiên của mọi người thân quen.
Luân nói: “Có gì lạ đâu quý vị - Lang bạt kỳ hồ” thì “Luân bạt” cũng có lúc “kỳ hồi” thôi!
Sau 75, Phu ra tù sớm, trong lúc Luân còn ở trại tù Trung Ương số 1, trên thượng nguồn sông Soumi, thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn chỉ cách biên giới Trung Quốc vài chục cây số ngàn.
Năm 1984 Luân ra tù, vợ Luân cho biết trước khi Phu vượt biên có tìm thăm và cho các con của Luân tiền. Cho đến bây giờ, Phu vẫn là một lão già độc thân. Chưa một lần cưới vợ, sống một mình ở Melbourne, Úc Châu. Thật khó nói, thoạt vào đời đã mang tên Phu, mà nhất định không một lần chịu làm Chồng !!!
Vũ Thế Phong khác hẳn, lấy vợ có con, và cũng nhiều đàn bà đi qua trong đời. Di tản qua Mỹ từ 30/4/75 nay lại là một Thiền Sư. Hôm nay một ngày đẹp trời, người đã từng ở tù 10 năm, đến thăm người bạn xưa đã tu được gần 20 năm. Chỉ khác nhau một dấu huyền, sao mà hai cuộc đời lại tương phản đến như vậy.
Trần Thế Luân, nghe tên cũng đã thấy chóng mặt. Sau 10 năm tù về vẫn còn vợ, nay đã 69. Chỉ còn một năm nữa thôi cũng 70 như Trần Nhật Phu. Tuy cháu nội, cháu ngoại đùm đề, nhưng nhìn cuộc đời (tình trường) lại có lúc mơ màng trong cõi mây.
Vũ Thế Phong, cái tên nghe cũng ào ạt thuở nào, nay 3 năm nữa cũng đủ 70. Đầy cõi mộng lại đang sống cuộc đời bình thường.
Ba nhân vật này, vài cấp chỉ huy trong Quân Đội thường nhìn họ, xem họ “không phải người phàm”. Tuy không nói, nhưng cũng biết các vị ấy nghĩ rằng” Thương cho người ta vái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương, chỉ tổ cho người ta ghét”. Biết như vậy nhưng họ là những người không biết nịnh, không biết chạy chọt cho nên không biến đổi họ được!
* **
- Ông ngoại đi đâu? Cứ mỗi lần sắp ra khỏi nhà là Luân lại nghe câu hỏi đó từ thằng cháu ngoại, con của đứa con gái út, 7 tuổi
- Ông ngoại đi thăm bạn của ông.
- Tránh cho ông ngoại đi, đừng làm phiền ông - Bà Luân lên tiếng
- Không tránh gì hết, ông ngoại cứ đi hoài hoài!
Luân cười, xoa đầu thằng bé, vỗ về
- Ông đi một chút ông về thôi mà!
Lão ra xe nổ máy, rời khỏi cổng khu Mobile Home, quẹo trái chỉ hai block đường là tới khu nhà của Vũ Thế Phong. Họ ở gần nhau như vậy đã 2 năm, bây giờ mới biết.
Ba mươi năm rồi, từ “những ngày trước 75 đến nay, sau khi gặp lần cuối ở Saigon, tại căn cứ Long Bình, Vũ Thế Phong không phải là người bình thường nữa. Phong đã trở thành Thiền Sư gần 20 năm nay rồi. Khi di tản đến Mỹ, cơ duyên nào thì không biết, nhưng tại Mobile Home sau cuộc đời mưa gió - Vũ Thế Phong - tên nào cuộc đời đó, nay gió đã ngừng thổi, mưa đã ngừng rơi, Thanh Lương Thiền Viện, nơi Ngài đang tu tập là một Mobile Home. Ngài gọi là Thanh Lương Thiền Viện. Rất chi ư là không giống cái ngôi chùa qui mô, phô trương với hàng ngàn khách thập phương lễ bái. Luân và Phong đều ở Mobile Home. Luân là quay. Phong là gió, ở Mobile Home là phải. Nói thế thì sao Phu không lấy vợ để làm chồng. Luân đang nghĩ vớ vẩn, thì đã đến nhà Phong, Luân gõ cửa, cửa mở, một thầy chùa thực sự đã nói sau tấm cửa lưới
- Luân hả, vào đây, trông ông không khác lắm, Phong nói.
- Ông cũng vậy không khác ngày xưa, tuy rằng sau 30 năm có vẻ già đi…
- Ông lúc nào cũng đùa.
Luân 69, Phong 67, cả hai đều sắp bước vào cổ lai hy . Phong của thế kỷ 21 của 2006. Vẫn hàm răng đó, vẫn nụ cười xưa, có khác chăng cái đầu không còn tóc, lởm chởm hàm râu bạc. Luân cảm thấy ngại ngùng trong việc xưng hô. Ngày xưa khi Luân là Trưởng đơn vị, Phong làm phó, thì vẫn ông ông, tôi tôi rất thân mật. Bẵng đi một thời gian dài như vậy, nay cách trang phục lại khác thường, tránh sao được phút đầu bỡ ngỡ. Với nụ cười thật tươi trên môi và đôi mắt nheo lại một cách hóm hỉnh, Luân nói :
- Chào Thầy
- Ông ngồi xuống đã, thầy Phong nóí.
Luân ngồi xuống chiếc salon kê ngay cửa vào. Trước mặt là một bàn đầy những dụng cụ uống trà. Cả chục hộp trà đủ các loại, chứng tỏ chủ nhân rất thích trà. Luân cũng vậy. Ngày xưa hai lão thích Bia, bây giờ hai lão thích trà, cũng bình thường thôi ! Nhìn vào trong, một bàn thờ Phật rất đẹp và trang nghiêm, có lẽ thầy Phong đã mất hàng chục năm, du phương tầm đạo mới sưu tập được.
Nhìn phía sau nữa thì đầy những sách là sách. Luân nghĩ có gì lạ đâu, không đọc sách thì làm gì. Từ khi gặp lại Phong, Luân đã có ý nghĩ.Trong cõi mộng, Vũ Thế Phong sống đời bình thường. Còn chính Luân trong cuộc đời bình thường, lại vẫn mãi tìm mộng. Luân nghĩ tay này đã 20 năm Thiền được, không phải là tầm thường, bái phục, bái phục.
Hồi trẻ, thầy cũng đẹp trai có duyên – và rất thông minh. Luân nhớ ”cái dáng dấp, khổ người... « Phu và Phong, hai người hao hao giống nhau, như hai anh em và trong tất cả bạn bè, Luân rất quí hai người này. Cả 3 có thể nói là ”Ta cũng nòi tình thương người đồng điệu.” Lúc họ trẻ, còn bây giờ phải nói sao đây ”Đường thênh thang, gió lộng một mình ta” Phong và Phu nói được câu đó. Nhưng Luân thì không ...Lão mỉm cười tự sáng tác “Đường thê nhi trói buộc cuộc đời ta” Đang nghĩ vẩn vơ như thế trong cái tâm chưa tịnh của Luân, thì thầy Phong lên tiếng :
- Bây giờ gặp nhau đây, đừng ai tính chuyện về, mình tha hồ hàn huyên. Tôi pha bình trà cái đã.
- Tôi cũng rất ghiền, trà đối với tôi là lẽ sống về già, có khi nghiện trà còn hơn nghiện đàn bà.
Cái tính nghịch ngợm của Luân ai cũng biết, có lẽ lão đang buông câu thăm dò để đi vào câu chuyện. Thầy Phong hiểu ngay.
- Tôi bây giờ khác rồi, thầy Phong nói.
Luân cảm thấy được trong giọng nói của thầy có sự thành thật của một người thoát tục.
- Nam Mô A Di Đà Phật, thầy tha tội, Thầy còn nhớ Hòn Khoai không?
- Làm sao quên được!
- Tôi bị thương trong lúc thầy đang đi phép Saigon. Tôi được chuyển ra bệnh Viện Hạm, rồi sau đó rời đơn vị luôn. Từ đó không còn dịp nào ghé lại OBI nữa. Luân nói. (Obi, tức Poulo Obi, hay Hòn Khoai, một hòn đảo rất nhỏ, diện tích vài cây số vuông, nằm ở nam mũi Cà mâu 12 hải lý.)
- Khi tôi trở lại đơn vị, thì được biết ông vào Rạch Đường Keo, bị thương mấy người, may không có ai chết. Và sau đó không bao lâu tôi thuyên chuyển khỏi đảo.
- Tôi nhớ vào giữa năm 66, tôi bị thương, thì cũng cuối năm đó tôi cưới vợ, Luân nói.
- Ông đi rồi tôi cũng gặp vài chuyện rắc rối, nhưng rồi mọi việc cũng qua, và thật sự đã qua lâu rồi. Thôi, uống vài chén trà đã, mừng ngày gặp lại, mỗi người mỗi cảnh, được ở gần nhau là vui rồi.
- Tôi cũng ở trong một Mobile Home khu gần đây. Thế nào thầy cũng gặp lại bà xã tôi. Tôi nhớ sau đám cưới của tôi, bọn mình còn đi chơi ở Queen Bee
- Cũng vài lần ở Câu Lạc Bộ Hải Quân Công Xưởng, khi tôi đã lên Thiếu Tá, ông vẫn còn Đại Úy
- Tôi không xuống Trung Úy là may lắm rồi Thầy ạ. Khi chưa có vợ lúc ở Hòn Khoai, tôi đã sắm chuông mỏ, áo nâu, hàng ngày công phu trong ngôi miếu nhỏ. Vậy mà bây giờ giữa thầy và tôi đã là thay đổi, có phải đi sau về trước không? Đùa chút chơi vậy thôi, bây giờ chúng ta là gì - Là hai lão già bên bàn trà, kẻ cựu tù, người đương tu!
- Thỉnh thoảng ông qua đây uống trà với tôi, nhiều loại lắm, được biết ông thích trà tôi cũng vui. Sau khi ở Obi, ông cưới vợ rồi sao?
- Bây giờ nhớ lại, tôi ở Obi không bao lâu thì bị thương và rời đảo, Thầy cũng không ở lâu, sau đó Thầy đi đơn vị khác. Bọn mình với bao nhiêu phiền toái nhiêu khê, ít khi gặp nhau. Gặp Thầy, cả một thời tuổi trẻ lại hiện về. Lúc đó đổi xuống Obi, phải gọi là bị đổi, vì như Thầy biết, ai xuống Obi mà không mang tiếng bị đi đầy, cả tôi và Thầy cũng vậy thôi. Lúc đó tôi chưa vợ chưa con. Sau một tháng làm tùy viên Tư Lệnh Hải Quân, thời ông Diệm, tôi xin thôi và trình bày với Tư Lệnh vì thiếu khả năng, ngoại hình, cũng như tự xét mình không thích hợp. Tất nhiên là ông chịu ngay và chúc tôi may mắn. Thật sự cái chính tôi từ chối gồm nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Tôi không thích chế độ Ngô Đình Diệm, mặc dầu tôi người gốc Quảng Bình. Trong lúc gia đình Tư lệnh Hải Quân ở Đà Nẵng, một gia đình Phật Giáo. Ông Tư lệnh rất có hiếu với mẹ, đồng thời cũng rất trung thành với chế độ ông Diệm. Ông vẫn ôm lấy cái quan điểm “Trung thần bất sự nhị quân” của Nho Giáo và đã lãnh cái chết. May mắn và sáng suốt của tôi là đã từ chức chỉ ba tuần trước khi ông Tư lệnh chết, xuống tàu tuần dương vùng Vịnh Thái Lan, vài tuần sau thì Tổng thống Kennedy cũng chết. Khi ở vịnh Thái Lan về, tôi tình nguyện đi Hải Quân đợt nhì. Lúc này tổ chức Hải tuần còn sơ khai. Có lẽ Thầy lúc đó sắp ra trường. Công tác ngoài hải phận miền Bắc vài lần, tôi suy nghĩ nhiều, vì mặc dầu lãnh rất nhiều tiền, nhưng Việt Nam không chủ động mà Mỹ làm hết, mình chỉ là kẻ đánh mướn. Và rồi rời Hải tuần không luyến tiếc, lại nữa mình cũng thiếu may mắn, gặp cấp chỉ huy không ra gì. Sau đó tôi xuống các Giang đoàn, cứ như trái banh trong đội cầu Hải Quân.
Suy cho cùng sự việc không phải do các cầu thủ, mà do trái banh xìu quá, họ không chơi được, đành phải vất bỏ chọn trái khác. Cuối cùng trái banh đá vào góc Obi làm phó cho Đại Úy Sơn. Ông Sơn rất tốt với tôi, cùng tuổi và không hiểu tại sao Sơn lại rất dễ dãi với tôi, trong một dịp đi Rạch Giá, tôi mua một áo tu màu lam, một bộ chuông mỏ, đem về đảo, ra chỗ cái chỗ miếu hoang, nằm cạnh Văn phòng Đơn vị. Tôi cọ rửa sạch sẽ các vết máu còn bê bết trên mấy bức tường vôi. Thầy biết mấy năm trước đó trên đảo Hòn Khoai có một trung đội địa phương quân trú đóng. Trên đảo có một con suối nước ngọt, uống ngon, giặt giũ thì áo quần trắng tinh. Thời đó các ghe đánh cá quanh vùng mũi Cà mau thường đến đảo Hòn Khoai lấy nước ngọt ở con suối đó. Khi trung đội Địa Phương Quân đến trú đóng tại đó, tất cả các ghe cá đến lấy nước, đều phải đóng tiền. Đối phương dùng mỹ nhân kế bằng cách đưa 2 chiếc ghe vào lấy nước, có mấy cô gái đẹp đi theo, mang thêm mấy vò rượu lớn, mấy cô gái chuốc rượu cho tất cả 17 địa phương quân say mèm, giết vất xác vào cái miếu. Khi tôi đến, các vết máu vẫn còn. Tôi làm một rèm che, và khi tôi buông rèm là lúc tôi chuông mõ tụng niệm. Một hôm cố vấn Mỹ hỏi Đại Úy Sơn:
- Ông Luân làm gì trong đó?
Đại Úy Sơn trả lời:
- He wants to be a monk!
- Cố vấn Mỹ lắc đầu bỏ đi. Tôi mặc áo, chuông mõ trước Thầy mà không đậu. Nam Mô A Di Đà Phật!
- Thật sự bây giờ nhìn mới thấy căn tu của Thầy, lúc trước không thấy.
Sau này Luân mới biết Thầy Phong là một cao tăng, rất có uy tín trong sư giới. Tuy vậy khi gặp lại lão thì sinh hoạt đối thoại cũng rất cởi mở về chuyện đời thường.
Hai người này cùng thích trà, cho nên câu chuyện rất vui, mang đầy đủ tính chất Hỷ, Nộ, Ái , Ố của cuộc đời. Họ có cách thoát tục riêng của họ vì mỗi người cũng khác nhau. Thoát của Phong là hiện tiền. Thoát của Luân là ẩn, ảo. Của lão đương tu đã 20 năm và lão cựu tù 10 năm. Tù và tu chẳng có gì khác, có chăng chỉ có dấu huyền
- Nếu dùng tù để tu, cao kiến. Nếu dùng tu để tù thì khó thoát. Luân nói.
- Dùng tu để tù là thế nào theo ý ông? Phong hỏi.
- Cũng dễ thôi. Nếu tu mà còn vướng mắc thì chính là tù làm sao thoát được.
Luân nhấp một ngụm trà, trầm ngâm suy tư. Ngày xưa, lúc còn trẻ, họ ngồi lại với nhau là nói chuyện tình ái, không còn một dancing nào ở Saigon mà không có gót chân của bọn họ. Họ là những kẻ bạt mạng vì thời cuộc, của những trai trẻ, phóng đãng và thông minh.
Hết tuần trà này, Thầy Phong lại pha tuần khác, mỗi lần là một loại trà. Vì tôn trọng người tu hành nên Luân không khơi lại quá khứ sau 1975 của Thầy Phong, mặc dầu mạn đàm rất nhiều đề tài. Sáu giờ chiều mới lui gót, sau khi hứa hẹn sẽ gặp Phong thường hơn.
Vài ngày sau, Thầy Phong ghé nhà ăn cơm chay với Luân
Một tuần sau khi Luân đi Las Vegas và Grand Canyon về, Luân mời Thầy Phong dùng cơm chay, Trước khi ăn cơm, hai người ngồi uống trà ở vườn nhỏ sau nhà.
Luân mua được hai loại trà rất ngon từ sở trà Lâm Đồng đem mời Thầy, Thầy rất thích. Dưới gốc ổi sau nhà, hai người bạn già rất vui, họ vẫn còn giữ được tình cảm của nhau hồi còn trẻ. Luân kể lại chuyến đi của mình tuần trước.
- Ông vẫn ham đi đây đi đó như ngày xưa?
- Thầy ơi, mỗi lúc mình đi với nỗi lòng khác nhau. Kỳ rồi tôi định đi Las Vegas nhưng đến Barstow, không hiểu sao tôi lại exit vào 40 east để đi Flagstaff thành phố nằm phía nam Grand Canyon. Tôi có nhiều kỷ niệm ở Flagstaff, cách nay 8 năm, tôi đã ở đó một năm.
Thầy Phong mơ màng:
- Tôi cũng vân du nhiều nơi lắm, rất nhiều danh lam thắng cảnh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan”. Riêng ở Grand Canyon thì thấy mình quá nhỏ bé trước cái hùng vĩ của thiên nhiên.
Luân tiếp:
- Thường tôi đi như vậy, mang theo một số CD nhạc Trịnh Công Sơn, một mình một ngựa. Cũng là cái thú của riêng tôi, lái xe đường dài, tôi xem như mình đang hành thiền, mà là “thiền động”. Lúc đó mới đúng là tôi nói chuyện với chính tôi. Năm ngoài 20 tuổi, trước khi vào quân trường Quân trường, làm SVSQ, trong một tản văn, tôi có viết hai câu:
Mặt biển có lúc là mặt hồ
Mặt hồ sẽ không bao giờ là mặt biển.
Đó là lúc tôi quyết định bỏ Kiến Trúc hay Sư Phạm để vào Hải Quân. Tôi lao vào đời với quan niệm như vậy, hơn nữa nếu lúc đó tôi không vào HQ, tôi cũng sẽ bị động viên.
Hoài bão thì đầy, tài năng lại cạn
Khó khăn cao, vận may quá thấp
Thời cuộc nhão nhoét, tâm não xơ cứng.
Mặt biển tuổi trẻ của bọn mình, tôi và Thầy không bao giờ thuận buồm xuôi gió, trái lại rất nhiều gió chướng của cuộc đời quân nhân. Tôi nghĩ thầy và tôi lúc đó đều khó chấp nhận. Lúc đó bọn mình chỉ vài chai, rồi vài chai và ngâm nga.
Ví phỏng đường đời bằng phẳng quá
Anh hùng hào kiệt dễ hơn ai
Nhớ lúc bọn mình ở An Thới, Phú Quốc, thời SQ liên lạc, nhớ Hậu trạm Rạch Giá, nhớ các cô gái dễ thương của thành phố đó, nhớ tiệm ăn trong lâu đài của bà Tám Nghĩa. Vậy mà đã gần 40 năm qua. Lúc đó thêm vài chai nữa, lại
Đêm nằm bên sông, nhớ núi
Ngày nằm bên núi, nhớ sông
Có rượu vào là thơ ra, thơ vay mượn để diễn tả cái chán chường của tuổi trẻ, đầu lớn, tay nhỏ.
Hồ Trường! Hồ Trường ta biết rót về đâu?
Thầy đổi xuống Obi vì sao tôi không biết. Phần tôi do lúc đó buồn bực việc gì tôi không còn nhớ. Tôi ôm 6 hộp đạn colt 12 ra sau ngọn đồi cát phía tây có bãi biển hẹp vắng, ngồi bắn 1 hơi hết 6 hộp đạn, trong một buổi chiều đầy gió
Hình như có ai đó báo cho Chỉ huy Trưởng Vùng là tôi tâm thần bất ổn và được đổi xuống Poulo Opo
- Bây giờ cuộc sống của ông là biển hay hồ? Thầy Phong đột ngột hỏi
- Bảy mươi rồi còn gì nữa mà Hồ với Biển Thầy ơi! Tuy nhiên mặt hồ này vẫn còn gợn sóng lăn tăn, chưa là mặt gương phẳng lặng như cuộc sống của Thầy, đang phản chiếu ánh đạo vàng. Thầy Phong biết tánh Luân, và rất rành cách phát biểu của lão, tuy nhiên vẫn không dấu được cảm kích và sung sướng.
- Mời Thầy dùng cơm chay với vợ chồng chúng tôi. Bà Luân từ trong nhà bước ra nói. Bà vốn là người sùng đạo Phật, được Thầy Phong quí mến đến chơi rất vui vẻ nhiệt tình tiếp rước. Hơn nữa ngày trước sau đám cưới, Thầy cũng có đến nhà vợ chồng Luân chơi ở Bà Chiểu.
Ba người vào nhà, ngồi vào bàn cơm. Luân nói tiếp
- Cuộc sống tôi hiện nay chưa được như gương mặt hồ ven bờ liễu rủ. Cái tính giang hồ vặt vẫn còn.
Sau bữa cơm, Bà Luân ngồi châm trà cho khách và chồng, nói chuyện Phật sự với Thầy. Bà cũng tế nhị không đả động đến cuộc đời đã qua của Thầy
Luân nhấp ngụm trà trầm ngâm hồi tưởng những ngày thơ dại, lão thích mưa và thích đi trong mưa. Bây giờ đã gần 70, cuộc sống biển đã biến thành hồ. Từ khi bỏ biển, lão đã lang thang rất nhiều mặt hồ, gần như một đam mê, có dịp gần hồ, thế nào lão cũng tìm đến đứng trên bờ hàng giờ để suy nghĩ hay không suy nghĩ gì cả.
Mỗi mặt hồ cho lão một cảm giác khác nhau. Hồ Than Thở Dalat, Biển hồ Cam bốt đường kính cả trăm cây số, Biển hồ Pleiku đường kính không quá một cây số. Năm Hồ rất đẹp ở tiểu bang New York có cái tên là Fingers Lakes, lão đã bỏ ba ngày lái xe quanh năm hồ đó vừa vãn cảnh, vừa cắm trại ngoài trời. Lão đã qua xứ vạn hồ Minnesota, Salt Lake tiểu bang Utah, Lake Tahoe ở California và những hồ đầy cá sấu ở Florida. Đang miên man về những ngày ở Mỹ sau ngót 10 năm tù, thì Bà Luân nói:
- Thôi, hai vị nói chuyện với nhau, để tôi lo dọn dẹp, trễ rồi. Nếu tiếp tục ngồi nói chuyện Phật sự với Thầy ông nhà tôi sẽ đi tu mất!
Luân trêu vợ:
- Bà có dám cho tôi theo Thầy Phong không? À mà tôi xuất gia thì ai lái xe cho bà đi Casino?
Luân quay qua Thầy Phong
- Bà vợ tôi lâu lâu cũng được tôi chở đi Casino. Các bà Việt Nam ở đây già rồi chỉ còn hai thú vui, một là vào chùa hay nhà thờ, hai là vào Casino thôi!
Bữa cơm chay thân tình, ngon miệng. Luân cũng như Thầy Phong, không có vẻ gì cách biệt giữa cương vị của hai người hiện nay. Qua đối thoại tâm tình của họ vẫn như ngày nào, với dí dỏm thuở đầu đời còn sót lại nơi hai người.
Tráng miệng xong, thêm một tuần trà, chủ khách không nỡ rời nhau trong một buổi chiều đẹp trời như vậy. Tu hay tù cũng vẫn còn tâm tình lưu luyến. Thầy Phong trầm ngâm, đôi mắt xa xăm nói :
- Cho đến khi mình quay đầu về với Đức Phật, mình thực sự đã chịu và hưởng đầy đủ mọi thứ ở cõi đời này. Mình không phải là người tu có căn cơ từ nhỏ. Phần ông thì thế nào ?
Luân nói ngay:
- Bây giờ bọn mình cũng nhàn tản rồi, tôi xin nói vắn tắt, ngót 10 năm tù của tôi. Rồi sẽ xin được nói tại sao tù, và tu ra sao ?
- Ngày 27 tháng 3 năm 1975, tôi đang ngủ ở nhà, có người gõ cửa. Đó là Vương hạ sĩ quan vô tuyến của tàu tôi, trao cho tôi sự vụ lệnh, giấy máy bay và công điện hỏa tốc phải bay ra Đà Nẵng để tăng cường Bộ chỉ huy nhẹ di tản đang ở trên HQ 5 ngoài khơi Đà Nẵng. Lúc ấy HQ1 đang Đại Kỳ mà tôi ở trên đó nên phải đi tạp dịch. Lúc trung sĩ Vương gõ cửa nhà tôi 5 giờ sáng vậy mà trước 7 giờ sáng máy bay cất cánh. Đó là 1 chiếc C130. Chỉ có 5 hành khách đáp xuống Đà Nẵng, tôi vào thành phố thì cảnh bắn giết nhau trong thành phố đã diễn ra.Tóm lại tôi bị kẹt ngay tại thành phố Đà Nẵng. Tôi tìm cách vào được căn cứ HQ Tiên Sa tối hôm đó khi đối phương pháo kích vào căn cứ Đà Nẵng. Tướng Ngô Quang Trưởng và Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại lên trực thăng bay đi, may sao tôi nhảy xuống được chiếc LCU cuối cùng rời cầu và ra được chiếc tàu buôn Miller. Khoảng sau 12 giờ khuya chiếc Miller phải chặt neo để vào Cam Ranh. Nói qua loa thôi, nếu viết lại thảm cảnh đó phải 1,000 trang. Từ Cam Ranh đến Long Hải đi bằng ghe đánh cá, gặp lúc biển động tất cả suýt chết chìm ở Cap Padaran. Về đến Sài Gòn tôi ở lại nhà luôn không xuống trình diện Bộ Tư Lệnh Hải Quân – Và có lẽ cũng không còn có ai ở Hải Quân nghĩ rằng có một Thế Luân còn sống. Mọi người đang tìm đường chạy. Tôi quyết định không chạy, ra sao thì ra . Từ kinh nghiệm Đà Nẵng, tôi thấy rõ ràng Hoa Kỳ đem con bỏ chợ. Bọn họ có khả năng giúp di tản, nhưng họ không làm, không giúp. Chiếc tàu Miller đưa tôi từ Đà Nằng vào Cam Ranh. Sau này tôi được biết cũng không phải của Mỹ mướn mà của Âu Châu. Lúc đó Thầy cũng đang tìm đường bôn tẩu. Tuy quyết định không đi, tôi cũng làm một vòng thăm bạn bè qua các cầu tầu, thấy mà chán. Thật sự điều chính yếu khiến tôi không đi là do những việc xảy ra trên tàu Miller trong khi di tản từ Đà Nẵng vào Cam Ranh, với mấy chiếc xà lan đầy chết chóc sau đó. Mình là người trong cuộc, nên thấy được mình đang bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Điều này thì chúng ta miễn bàn.
- Sau đó ông đi tù như thế nào? Thầy Phong hỏi.
- Thầy đi từ 75 nên không biết. VC thông báo chuẩn bị tiền gạo ăn một tuần đi học tập, đường lối chính sách mới. Sau đó sẽ sinh hoạt bình thường. Những người trình diện này do quân đội miền Bắc quản lý. Thế là họ gom trọn một mẻ tất cả SQ quân cán chính miền Nam ngây thơ. Mãi 3 năm sau họ mới chuyển những người này qua cho lực lượng công an giam giữ.
Phần tôi vài ngày sau 30/4, anh bạn rất thân của tôi cũng người Quảng Bình, Trung Tá Bộ Binh, anh gặp tôi, kéo tôi ra riêng nói : “Anh ruột tao Đại Tá miền Bắc, gặp tao rồi, anh nói chú mày phải tìm đường chuồn gấp, nghe lời anh đi. “ Tôi thấy ngay sự việc, vừa lúc có một tổ chức đang kiếm tài công, chỗ này quen biết, tôi nhận lời lén đem cả gia đình ra Vũng tàu, sáng 19/5, ngày sinh nhật HCM thì tôi bị bắt lúc gia đình tôi đang ở địa điểm khác, kiếm cách về Saigon ngay. Tôi bị trói đem vào một trường tiểu học ở gần chợ Vũng Tàu. Một thanh niên trẻ, sơ mi trắng quần xanh, mặt mày sáng sủa, ngồi ở bàn giữa lớp. Bốn thanh niên khác AK kèm sau lưng tôi đẩy tôi vào thanh niên đó. Hắn nhìn tôi và nói ”Chào commandant.” Tôi biết ngay nó là một quân nhân HQ Việt Nam CH, một cán bộ nằm vùng ở căn cứ HQ Vũng Tàu, chắc chắn hắn biết tôi mà tôi không biết hắn. Chúng giam tôi 3 tháng ở An ninh nội chính Vũng Tàu, trong xà lim. Thời gian này tôi biết được nhiều chuyện kỳ thú, nhiều tay chọc trời khuấy nước. Có dịp, tôi sẽ viết hồi ký hoặc truyện dài. Thế rồi chúng chuyển vào trại B5 ở Tân Hiệp Biên Hòa. Trại này do Mỹ xây dựng để nhốt nữ tù binh VC, và hướng nghiệp trước khi thả về. Khoảng tháng 11/1976, một số chuyển lên trại Xuân Lộc ở Long Khánh, trong đó có tôi. Tại đó được cuốc đất trồng sắn. Hơn một tháng, tôi cùng khoảng 200 người được đưa xuống trại giam Thủ Đức. 10 ngày sau, đưa xuống Tân Cảng Saigon xuống tàu có tên Hải Phòng, và đi Hải Phòng. Đến Hải Phòng, bọn họ đã chuẩn bị độ 20 xe đò để chở khoảng 1500 người từ tàu Hải Phòng. Tất cả tù chuyển lên xe và đi một mạch từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya, cứ 2 người 1 cái còng. Khoảng 500 người trong toán của tôi đưa vào trại Phong Quang mà họ gọi là trại cải tạo Trung ương số 1 ở Hoàng Liên Sơn. Ở đây tôi trốn trại không thoát nằm thêm mấy tháng xà lim nữa. Tôi trốn trại vào ngày mồng 2 tết. Từ đó tôi bị liệt vào thành phần nguy hiểm. . Vài tuần trước khi Trung Quốc đánh Việt Nam, khoảng 80 người , gồm từ cấp Trung tá trở lên, An ninh Quân Đội, Tâm Lý Chiến, Cảnh sát Trưởng. Chỉ có mình tôi là Thiếu tá HQ, một người nữa trốn nữa trốn trại cùng tôi trước đó. Giai đoạn này có nhiều chuyện đau buồn trong anh em. Nhưng thôi, Luân kể tiếp. 80 người tách riêng đó đưa về trại Nam Hà, ở tỉnh Hà Nam Ninh, còn gọi là trại Ba Sao. Tôi không nhớ rõ tháng mấy năm 1980, họ đưa tôi vào Nam, trở lại trại Xuân Lộc và năm 1984 tôi được thả về. Con đường tù với bao nhiêu khổ nhục, nay đã qua, lược thuật lại cũng đơn giản, rất nhiều năm chỉ có ước muốn nhìn thấy một đứa trẻ dưới 5 tuổi mà không thể có cơ hội.
Chuyện tù rất nhiều, rất tiếc mình không có trí nhớ tốt và văn tài để viết lại. Nghĩ cho cùng, cuộc đời như mây trôi, như gió thổi, như gang tay. Mình phải nắm chắc hiện tại. Hiện tại là thực chất của cuộc sống. Trong những năm tù đầy, tôi cố gắng cho rằng, mình đang tu, từ suy nghĩ đó, mà bây giờ sức khoẻ còn tốt, đủ để vui sống trong tuổi già với các cháu nội, cháu ngoại.
Nói đến đấy, Luân có vẻ suy nghĩ về Thế Phong, những con đường tình của Thầy trước đây, đầy sóng gió. Thầy Phong hồi trẻ rất hào hoa, con nhà giầu lâu đời ngoài Bắc trước 54. Vào Nam có sa sút, nhưng vẫn có nhà cửa ở Pháp. Thầy tuy trẻ sống phong lưu, với đàn bà cũng ít nhiều “Xì căng đan“. Luân chợt hỏi Thầy Phong:
- Thế thôi, đường tù của tôi nó đơn giản vậy đó.
- Đường tu của thầy thì sao?
- Cũng không có gì phức tạp. Cả gia đình tôi qua đây từ 1975, rồi vì sinh kế, hoàn cảnh, phải sống xa nhau. Có một lúc tôi bị bệnh rất nặng, thập tử nhất sinh, tưỏng đã chết rồi, không ngờ sống lại. Tôi không còn ham muốn, khao khát gì nữa, tôi vào chùa và rồi thành Thầy tu. Tôi sẽ tặng ông cuốn “Duy Thức Tam Thập Tụng Lược Giải“ (1) trong đó ông sẽ hiểu tiến trình tu học của tôi cũng đơn sơ như hành trình tù đày của ông, nếu cùng nhìn ở góc độ nào đó.
Thầy Phong tiếp:
- Trước khi nói về con đường tu của tôi, tôi xin đọc ông nghe bài thơ “Luân Vũ Xoay Tròn” vì tên ông là Thế Luân. Bài này của Giáo sư Nghiêm Xuân Hồng tặng tôi vào mùa xuân năm 1997. Giáo sư Hồng nay đã mất rồi.
- Hồi còn trẻ, Ba tôi khi nói chuyện về Phật Giáo, cũng thường nhắc đến giáo sư Nghiêm Xuân Hồng và rất thán phục. Luân nói :
- Tôi có nhiều ân tình sâu nặng với giáo sư Nghiêm Xuân Hồng. Ông nghe đây, bài thơ “Luân Vũ xoay tròn »
Ta tìm ai chiều nay qua mấy kiếp
Trong không hư nhìn lại mảnh hồn đau
Giấc liêu trai, chiều nay ta vẫn thiếp
Cảnh sông hồ bàng bạc chuyện xưa sau.
Xưa hay sau, ô hay, kỳ lạ nhỉ
Xưa là xưa, hay xưa lại là sau
Thuở xưa ấy quanh co và huyền ảo
Chìm vào không, rồi lại nở ngàn sau
Nên kiếp sống là vòng tròn mộng huyễn
Sanh rồi không, rồi lại nở ra hình
Cái không ấy là ông Vua Chú thuật
Hiện ra hình, rồi lại biến vào không.
Hình nộm ấy mang theo nhiều hệ lụy
Lụy ăn uống, lụy mơ tưởng, lụy tình duyên
Hồn lắm lúc bồng bềnh như gió nhốt
Muốn hư vô mà chẳng có hư vô.
Tâm với cảnh, thiên thu dời gót bước
Thấy như hai, mà chẳng phải là hai
Nhịp luân vũ chập chùng và bất diệt
Ta là ai, mà chẳng phải là ai.
Với khẩu khí và tính khí của ông, tôi nghĩ ông thích bài thơ này.
- Hay thật, hay quá
Luân lặng người, nhấp một ngụm trà và từ từ đọc
Rồi một hôm nào sẽ ra đi
Đua chen danh lợi để mà chi
Trò đời ngẫm cũng tuồng hư ảo
Thế sự thăng trầm những lụy bi
Tử sanh sanh tử, vô cùng tận
Đắm nguyệt say hoa vạn vạn lần
Một lần sanh tử hằn ngấn lệ
Mà thú đau thương chẳng ngại ngần
Sống trong nhà lửa vẫn không hay
Cha dặn dò con phải thoát ngay
Khỏi vòng sinh tử về cực lạc
Xa chốn hồng trần, đám bụi bay.
Đọc xong, Luân hỏi, Thầy biết bài thơ đó của ai không ?
- Chắc là của một thầy tu
- Không phải. Thầy còn nhớ lúc tôi mới cưới vợ, tôi ở nhà vợ, một hôm thầy đến chơi. Sau đó cùng với Thầy qua nhà ông bố tôi chơi, nhân có đám giỗ. Tình cờ Thầy gặp em gái thứ 6 của tôi, lúc đó đang học y khoa, nay đã 60 tuổi. Là một bác sĩ trước 75, đã đậu bằng tương đương ở Mỹ, nhưng không mở phòng mạch, ăn chay trường. Chồng và con gái đều là Bác sĩ. Lúc đó Thầy nói thích nó. Vì mến Thầy, xem như anh em, tôi tạo cuộc họp mặt gồm có Thầy, tôi, vợ tôi, em gái tôi và Trần Nhật Phu nghe nhạc ở Queen Bee, trên thương xá Eden. Cô em gái đó chính là tác giả bài thơ trên. Cô ta bây giờ là một Phật tử rất thuần thành, cũng đáng nể.
Thầy Phong cười, một nụ cười tươi và hiền, trong ánh mắt có vẻ mất đi chút ít nét tu hành
- Có khi cuộc đời bắt ta phải trấn áp nhiều thứ, không trấn áp được, lại phải buông thả, và cứ như vậy, kinh nghiệm là chiếc bè đưa ta đến bình yên, an lạc.
- Ông nói hoàn toàn đúng, cũng như trái tim sống cứ phải bóp rồi buông, buông rồi bóp. Khi nào hết buông bóp là xong, là bình yên.
- Tôi cách nay mấy năm, trái tim đã muốn buông luôn, không bóp. Vậy mà một Bác sĩ Ấn Độ, mở ra, bypass mấy động mạch vành, nó lại bóp, lại buông. Thành thử vẫn chưa được bình yên, vẫn được ngồi cùng Thầy trà đàm phiếm luận chuyện nay, xưa.
- Tính ông khá hay, có lẽ không có gì quan trọng với ông.
- Tôi rất yêu cuộc sống, đó là sự thật, không cần chứng minh. Nhưng tôi rất ít lệ thuộc vào cuộc sống . Ở trong tù tôi vẫn thanh thản, cam chịu, thậm chí trong lúc cam chịu tôi vẫn thầm thương yêu cuộc sống. Không hiểu trong quá trình tu tập, Thầy quan niệm cuộc sống như thế nào ?
Thầy Phong giải thích:
- Tôi chuyên thực hành Thiền tông, là đệ tử Việt Nam duy nhất ở Mỹ được truyền thừa dòng Thiền Vân Môn từ Thiền sư Phật Nguyên Diệu Tâm bên Trung Hoa. Vì chuyện thực hành Thiền Tông Trung Hoa nên tôi đã trải nhiều thời gian tụ tập tại nhiều thiền đường vắng vẻ trong núi rừng như Tuyết Sơn Tự, và Tu viện Long Beach, Thiền viện của Thiền sư Thánh Nghiêm ở Mỹ. Trong rừng Thái Lan thuộc tăng đoàn Thiền Lâm Quốc tế, của hệ thống Ajahor cha, Ajahorn Chan Ajahor Chan và Ajahor Sumedho, trong thiền đường Mahasi Sayahan ở Miến Điện trong các thiền viện, Trung Hoa, Hồng Kông và Đài Loan.
Thầy Phong chiêu một ngụm trà rồi tiếp:
- Chuyện cũng dài dòng lắm, nhiều lần tôi được tiếp cận và học hỏi nhiều thiền sư danh tiếng. Như cố Đại Lão Thiền Sư Pharmavara Mahathera, ngài là người Cam Bốt thọ đến 112 tuổi. Thiền sư Thánh Nghiêm tại Mỹ, cố Hòa thượng Tâm Cẩn tại chùa Diên– Hựu. Thiền sư Thanh từ và Thông lạc tại Việt Nam. Các Thiền sư Trung Hoa thì có Thiền sư Đức Lâm tại Cao Mân Thiền Tự, Thiền sư Như Thành tại Ngọa Long Thiền Tự, Thiền sư Phật Nguyên tại Vân Môn Thiền Tự, Thiền sư Thánh Nhất tại Bảo Lâm Thiền Tự ở Hồng Kông. Thiền sư Truyền Bố và cố Thiền sư Trí Xuân ở Nam Đầu Đài Loan. Hồi ở Đài Loan tôi xin từ chối tiếp nhận thiền viện của đại lão Thiền sư Truyền Bố, một cao đồ của cố Thiền sư Quảng Khâu vì thật sự tôi còn muốn du phương tầm đạo, chưa muốn dừng chân tại Đài Loan.
Thầy Phong thao thao bất tuyệt và xem như đang nói chuyện với Thiền sư Ngũ Tĩnh (Luân đôi lúc vẫn đùa cho mình là Ngũ Tĩnh Thiền sư) Thầy Phong nhấp một ngụm trà rồi như đang xuôi trên giòng tư tưởng của Thiền môn, Thầy nói tiếp :
- Đặc biệt tôi được truyền thừa tông phái Vân Môn từ Đại lão Hòa thượng Diệu Tâm Phật Nguyên tại Vân Môn Thiền Tự. Thiền sư Phật Nguyên khi xưa là thị giả của cố Thiền sư Hư Vân từng là phương trượng của Nam Hoa Thiền Tự tại Quảng Châu Trung Hoa.
Cố Thiền sư Hư Vân sinh năm 1840, trụ thế 120 năm, mất năm 1959, là vị Thiền sư Trung Hoa danh tiếng cận đại, là người khôi phục 5 tông phái Thiền Trung Hoa gồm Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưởng, Pháp Nhãn và Vân Môn. Thiền sư Hư Văn là tổ sư thứ 12 của Vân Môn, sau Tổ Vân Yển của Vân Môn 11 đời. Thiền sư Phật Nguyên thuộc đời thứ 13 và tôi là đời thứ 14 của Vân Môn
Trong không gian êm ả của buổi chiều, Thầy Phong nói từ tốn, nhẹ nhàng có vẻ như trước mặt Thầy - Trần Thế Luân cũng là một thiền sư, chưa xác định tông phái.
- Luân thầm so sánh thời gian qua các trại tù của lão, và thời gian qua các thiền viện Phật Giáo của Thầy Phong, bất giác lão mỉm cười và nói:
- Chữ Tài liền với chữ Tai một vần
Chữ Tù liền với chữ Tu cũng một vần.
- Tôi và Thầy một lúc nào đó chúng ta gặp nhau ở Hòn Khoai (Poulo Obi), tuy không lâu nhưng cũng rất đậm tình. Tôi đã gõ ! mõ tụng kinh từ trước 1965 và mãi đến bây giờ vẫn còn xoay tròn trong vòng tục lụy. Thầy đã yên bề ở chốn Thanh cao. Riêng Trần Nhật Phu bên xứ Úc Châu xa xôi đã 70 chưa một lần cưới vợ. Có lẽ Phu thông minh hơn mình. Trong buổi chiều tà hôm nay, cũng như chiều tà của cuộc đời mình. Tôi thấy được thời gian ở Poulo Obi của chúng mình rất hay. Miền Nam đưa tôi xuống Hòn Khoai, phía Nam Cà Mau 12 hải lý. Miền Bắc đưa tôi đến Lào Kay cực Bắc của nước Việt Nam. Số phận đã như vậy, bây giờ có lẽ nhờ Thầy mới đến được cái nơi mà mình nên đến. Thôi thì cứ tà tà đi !
- Ông Luân ơi. Tôi xin phép về, có dịp sẽ đưa ông đi thăm các ngôi chùa quen. Nghe ông sắp đi Việt Nam, nhờ ông đặt may dùm tôi 60 cái áo bao bồ-đoàn. Tôi sắp khai giảng lớp Thiền miễn phí.
- Thầy yên tâm, sẽ có áo bồ-đoàn như Thầy muốn.
Tiễn Thầy Phong ra cửa, Luân trở vào nhà với suy nghĩ. Bây giờ sắp xếp để Thiền với mấy đứa cháu nội, ngoại ở nhà mà Luân gọi là giờ Thiền động .
Mục Lục
9 ● Giờ Điểm Danh Cuối Cùng Của Những Cậu Học Trò Trên 60 ◘ Du Tử Lê
30 ● Đám Tang Giữa Hư Vô ◘ Du Tử Lê
44 ● Bờ Kè và, Bờ Kè ◘ Du Tử Lê
57 ● Đi Với Về: Cũng Một Nghĩa Như Nhau ◘ Du Tử Lê
## ● Daddy! Còn Có Ngày Mai ◘ Hoàng Sỹ
XX ● O Mơ ◘ HoàngSỹ
XX ● Người Lính Về Sông Hương ◘ Hoàng Sỹ
XX ● Biển Và Hồ ◘ Hoàng Sỹ